Jerry-Kleeman-strategy-and-people1
Lập kế hoạch là chức năng đầu tiên trong bốn chức năng của quản lý
là lập kế hoạch , tổ chức , lãnh đạo và kiểm tra. Lập kế hoạch là
chức năng rất quan trọng đối với mỗi nhà quản lý bởi vì nó gắn liền
với việc lựa chọn mục tiêu và chương trình hành động trong tương
lai, giúp nhà quản lý xác định được các chức năng khác còn lại nhằm
đảm bảo đạt được các mục tiêu đề ra. Cho đến nay thì có rất nhiều
khái niệm về chức năng lập kế hoạch. Với mỗi quan điểm , mỗi cách
tiếp cận khác nhau đều có khái niệm riêng nhưng tất cả đều cố gắng
biểu hiện đúng bản chất của phạm trù quản lý này. Nếu đứng trên góc
độ ra quyết định thì : “ Lập kế hoạch là một loại ra quyết định đặc
thù để xác định một tương lai cụ thể mà các nhà quản lý nhu cầu cho
tổ chức của họ “. Quản lý có bốn chức năng cơ bản là lập kế hoạch,
tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra . Lập kế hoạch có khả năng ví như là
bắt đầu từ rễ cái của một cây sồi lớn , rồi từ đó mọc lên các “
nhánh” tổ chức , lãnh đạo và kiểm tra. Xét theo quan nơi này thì
lập kế hoạch là chức năng khởi đầu và trọng yêú đối với mỗi nhà
quản lý. Với cách tiếp cận theo quá trình : Kế hoạch sản xuất kinh
doanh có khả năng coi là quy trình liên tục xoáy trôn ốc với chất
lượng ngày càng tăng lên kể từ khi chuẩn bị xây dựng kế hoạch cho
tới lúc chuẩn bị tổ chức thực hiện kế hoạch nhằm đưa vận hành của
Doanh nghiệp theo đúng mục tiêu đã đề ra . Theo STEYNER thì :”Lập
kế hoạch là một quy trình bắt đầu từ việc thiết lập các mục tiêu ,
quyết liệt các chiến lược , các chính sách , kế hoạch chi tiết để
đạt được mục tiêu đã định .Lập kế hoạch cho phép thiết lập các
quyết định khả thi và bao gồm cả chu kỳ mới của việc thiết lập mục
tiêu và quyết liệt chiến lược nhằm hoàn thiện hơn nữa.” Theo cách
tiếp cận này thì lập kế hoạch được xem là một quy trình tiếp diễn
phản ánh và thích ứng được với những biến động diễn ra trong môi
trường của mỗi tổ chức, đó là quá trình thích ứng với sự không chắc
chắn của môi trường bằng việc xác định trước các phương án hành
động để đạt được mục tiêu chi tiết của tổ chức. Với cách tiếp cận
theo nội dung và vai trò : Theo RONNER :”vận hành của công tác lập
kế hoạch là một trong những vận hành nhằm tìm ra con đường để kêu
gọi và sử dụng các nguồn lực của Doanh nghiệp một cách có hiệu quả
nhất để phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh .” Theo HENRYPAYH :
“Lập kế hoạch là một trong những hoạt động cơ bản của quy trình
quản lý cấp Doanh nghiệp , xét về mặt bản chất thì vận hành này
nhằm mục đích xem xét các mục tiêu , các phương án kinh doanh ,
bước đi trình tự và cách tiến hành các hoạt động sản xuất buôn
bán.” Như vậy , Lập kế hoạch là quá trình xác định các mục tiêu và
lựa chọn các phương thức để đạt được các mục tiêu đó . Lập kế hoạch
nhằm mục đích xác định mục tiêu cần phải đạt được là cái gì ?và
phương tiện để đạt được các mục tiêu đó như thế nào ? Tức là , lập
kế hoạch bao gồm việc xác định rõ các mục tiêu cần đạt được , xây
dựng một chiến lược tổng thể để đạt được các mục tiêu đã đặt ra ,
và việc triển khai một hệ thống các kế hoạch để thống nhất và phối
hợp các vận hành.
Vai trò của lập kế hoạch
Xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân thì kế hoạch là một
trong số những công cụ điều tiết chủ yếu của Nhà nước.Còn trong
phạm vi một Doanh nghiệp hay một tổ chức thì lập kế hoạch là khâu
đầu tiên , là chức năng quan trọng của quá trình quản lý và là cơ
sở để đẩy nhanh vận hành sản xuất kinh doanh có hiêụ quả cao , đạt
được mục tiêu đề ra. Các nhà quản lý cần phải lập kế hoạch bởi vì
lập kế hoạch cho biết phương hướng hoạt động trong tương lai , làm
Giảm sự tác động của những thay đổi từ môi trường , tránh được sự
lãng phí và dư thừa nguồn lực , và thiết lập nên những tiêu chuẩn
thuận tiện cho công tác kiểm tra . hiện nay , trong cơ chế thị
trường có thể thấy lập kế hoạch có các vai trò to lớn đối với các
công ty. Bao gồm : -Kế hoạch là một trong những công cụ có vai trò
quan trọng trong việc phối hợp nỗ lực của các thành viên trong một
công ty . Lập kế hoạch cho biết mục tiêu , và hình thức đạt được
mục tiêu của Doanh nghiệp . Khi tất cả nhân viên trong cùng một
Doanh nghiệp biết được công ty mình sẽ đi đâu và họ sẽ cần phải
đóng góp gì để đạt được mục tiêu đó , thì chắc chắn họ sẽ cùng nhéu
phối hợp , hợp tác và làm việc một cách có tổ chức. Nếu thiếu kế
hoạch thì quĩ đạo đi tới mục tiêu của Doanh nghiệp sẽ là đường
ziczăc phi hiệu quả . -Lập kế hoạch có tác dụng làm hạn chế tính
bất ổn định của công ty, hay tổ chức . Sự bất ổn định và thay đổi
ngay của môi trường làm cho công tác lập kế hoạch trở thành tất yếu
và rất rất cần thiết đối với mỗi công ty , mỗi nhà quản lý .Lập kế
hoạch buộc những nhà quản lý phải nhìn về phía trước , dự đoán được
những thay đổi ngay trong nội bộ Doanh nghiệp cũng như môi trường
bên ngoài và cân nhắc các ảnh hưởng của chúng để đưa ra những giải
pháp ứng phó thích hợp. -Lập kế hoạch làm Giảm được sự chồng chéo
và những hoạt động làm lãng phí nguồn lực của công ty . Khi lập kế
hoạch thì những mục tiêu đã được xác định , những phương thức hấp
dẫn nhất để đạt mục tiêu đã được lựa chọn nên sẽ dùng nguồn lực một
cách có hiệu quả , cực tiểu hoá chi phí bởi vì nó chủ động vào các
vận hành hiệu quả và phù hợp. -Lập kế hoạch sẽ thiết lập được những
tiêu chuẩn tạo khó khăn cho công tác kiểm tra đạt hiệu quả cao .
Một công ty hay tổ chức nếu không có kế hoạch thì giống như là một
khúc gỗ trôi nổi trên dòng sông thời gian. Một khi Doanh nghiệp
không xác định được là mình phải đạt tới cái gì và đạt tới bằng
cách nào , thì đương nhiên sẽ không thể xác định đựợc liệu mình có
thực hiện được mục tiêu hay chưa , và cũng không thể có được những
biện pháp để điều chỉnh kịp thời khi có những lệch lạc xảy ra . Do
vậy, có thể nói nếu không có kế hoạch thì cũng không có cả kiểm tra
. Như vậy , lập kế hoạch quả thật là quan trọng đối với mỗi công ty
, mỗi nhà quản lý . Nếu không có kế hoạch thì nhà quản lý có thể
không biết tổ chức , khai thác con người và các nguồn lực khác của
công ty một cách có hiệu quả , thậm chí sẽ không có được một ý
tưởng rõ ràng về cái họ cần tổ chức và khai thác . Không có kế
hoạch , nhà quản lý và các nhân viên của họ sẽ rất khó đạt được mục
tiêu của mình , họ không biết khi nào và ở đâu cần phải làm gì .
Còn đối với mỗi cá nhân chúng ta cũng vậy , nếu chúng ta không biết
tự lập kế hoạch cho bản thân mình thì chúng ta không thể xác định
được rõ mục tiêu của chúng ta cần phải đạt tới là gì ? với tiềm lực
của mình thì chúng ta cần phải làm gì để đạt được mục tiêu đó ?
Không có kế hoạch chúng ta sẽ không có những thời gian biểu cho các
hoạt động của mình, không có được sự nỗ lực và cố gắng hết mình để
đạt được mục tiêu . vì vậy mà chúng ta cứ để thời gian trôi đi một
cách vô ích và hành động một cách thụ động trước sự thay đổi của
môi trường xung quanh ta . Vì vậy mà việc đạt được mục tiêu của mỗi
cá nhân ta sẽ là không cao , thậm chí còn không thể đạt được mục
tiêu mà mình mong muốn . Tóm lại , chức năng lập kế hoạch là chức
năng đầu tiên , là xuất phát điểm của mọi quy trình quản lý . Bất
kể là cấp quản lý cao hay thấp , việc lập ra được những kế hoạch có
hiệu quả sẽ là chiếc chìa khoá cho việc thực hiện một cách hiệu quả
những mục tiêu đã đề ra của công ty.
Hệ thống kế hoạch của tổ chức
Hệ thốngkế hoạch của một tổ chức là tổng hợp của thường xuyên loại
kế hoạch khác nhéu nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau theo một
định hướng nhất định nhằm thực hiện mục tiêu tối cao của tổ chức.
Các kế hoạch của một tổ chức được phân loại theo thường xuyên tiêu
thức khác nhau. Theo mỗi tiêu thức phân loại thì lại có một hệ
thống kế hoạch khác nhau. Theo mức độ tổng quát Sứ mệnh Sứ mệnh là
một bức thông điệp thể hiện lý do tồn tại của tổ chức , sứ mệnh sẽ
trả lời cho câu hỏi : Tổ chức tồn tại vì mục đích nào? Một tổ chức
khi thành lập trước hết đều đặn phải xác định được sứ mệnh của mình
. Sứ mệnh của một tổ chức được đặt ra trên cơ sở xác định những
lĩnh vực vận hành của tổ chức đó , những giả định về mục đích , sự
thành đạt và vị trí của tổ chức trong môi trường hoạt động của nó
.Sứ mệnh của tổ chức là bộ phận tương đối ổn định , mang tính bản
sắc của tổ chức và có vai trò thống nhất cũng như khích lệ các
thành viên của tổ chức trong việc thực hiện mục tiêu chung . Sứ
mệnh tổ chức bao gồm hai loại sau : Sứ mệnh được công bố : là sứ
mệnh thông báo được thông báo một cách công khai cho mọi người ,
thông qua thị trường để Doanh nghiệp đạt đựơc mục tiêu , và nó đựơc
thể hiện thông qua các khẩu hiệu , các triết lý buôn bán ngắn gọn
của công ty . Sứ mệnh không được công bố: Là sứ mệnh thể hiện lợi
ích tối cao của công ty. Như vậy , có khả năng nói sứ mệnh là cơ sở
đầu tiên để xác định mục tiêu chiến lược của tổ chức, là phương
hướng phấn đấu của tổ chức trong suốt thời gian tồn tại của mình và
nó là cơ sở để xác định phương thức hành động cơ bản của tổ chức.
Kế hoạch chiến luợc Kế hoạch chiến lược là những kế hoạch đưa ra
những mục tiêu tổng thể, dài hạn,và phương thức cơ bản để thực hiện
nó trên cơ sở phân tích môi trường và vị trí của tổ chức trong môi
trường đó . Các kế hoạch chiến lược do những nhà quản lý cấp cao
của tổ chức thiết kế với mục đích là xác định những mục tiêu tổng
thể cho tổ chức. Các kế hoạch chiến lược liên quan đến mối quan hệ
giữa con người của tổ chức với các con người của những tổ chức khác
. Kế hoạch tác nghiệp Kế hoạch tác nghiệp là các kế hoạch cụ thể cụ
thể hoá cho các kế hoạch chiến lược , nó trình bày rõ chi tiết tổ
chức cần phải làm như thế nào để đạt được những mục tiêu đã đặt ra
trong kế hoạch chiến lược . Kế hoạch tác nghiệp thể hiện cụ thể kế
hoạch chiến lược thành những vận hành hàng năm, hàng quý , hàng
tháng bao gồm các kế hoạch nguyên vật liệu , kế hoạch nhân công ,
kế hoạch tiền lương , kế hoạch sản phẩm ….Kế hoạch tác nghiệp nhằm
mục đích bảo đảm cho mọi người trong tổ chức đều đặn hiểu về các
mục tiêu của tổ chức và xác định rõ ràng trách nhiệm của họ trong
việc thực hiện mục tiêu chung đó và các hoạt động cần được tiến
hành ra sao để đạt được những kết quả dự định trước . Các kế hoạch
tác nghiệp chỉ liên quan đến những người trong cùng một tổ chức .
Các kế hoạch tác nghiệp được chia thành hai nhóm sau: Các kế hoạch
tác nghiệp xây dựng một lần sử dụng một lần: là những kế hoạch cho
những hoạt động không lặp lại.Bao gồm: -Chương trình: Là một tổ hợp
các chính sách , các Thủ tục , các qui tắc và các nguồn lực cần
thiết có khả năng huy động nhằm thực hiện các mục tiêu nhất định
mang tính độc lập tương đối . Mục tiêu của chương trình là mục tiêu
quan trọng , ưu tiên nhưng lại mang tính độc lập tương đối vì thế
trong quy trình thực hiện nó đòi hỏi phải có sự phối hợp của các bộ
phận khác . Chương trình được hỗ trợ bởi những ngân quĩ cần thiết
.Một chương trình tương đối lớn , quan trọng thường bao gồm trong
nó thường xuyên chương trình nhỏ phụ trợ . Ví dụ chương trình xoá
đói Giảm nghèo của chính phủ bao gồm có các chương trình phụ trợ
như chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế , chương trình cho vay
vốn , … -Dự án : Thường có mục tiêu chi tiết , quan trọng ,
mang tính độc lập tương đối . Nguồn lực để thực hiện mục tiêu của
dự án phải rõ ràng bao gồm cả hình thái nguồn lực theo thời gian và
không gian. -Các ngân quĩ: Là kế hoạch tác nghiệp được thể
hiện bằng số . Ngân quĩ không chỉ đơn thuần là ngân quĩ bằng tiền
mà còn có ngân quĩ phi tiền tệ như ngân quĩ nhân công , ngân quĩ
nguyên vật liệu , ngân quĩ máy móc thiết bị … Các kế hoạch tác
nghiệp xây dựng một lần dùng thường xuyên lần : Là các kế hoạch cho
những vận hành thường xuyên lặp lại. Bao gồm: -Chính sách: Là
những qui định chung để hướng dẫn tư duy và hành động khi ra quyết
liệt trong các lĩnh vực cơ bản của tổ chức .Chính sách thể hiện các
quan điểm và giá trị của tổ chức nhằm giải quyết các vấn đề có tính
nhiều lặp lại .Trong một tổ chức có khả năng có thường xuyên loại
chính sách khác nhéu cho những mảng hoạt động cơ bản . Ví dụ :
chính sách hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam nhằm xác định
các giải pháp và công cụ để hỗ trợ các công ty này phát triển hơn
nữa như cho vay vốn ưu đãi để đầu tư,hạn chế thuế suất… Chính sách
bảo đảm sự phối hợp hành động và giúp cho việc thống nhất các kế
hoạch khác nhéu trong tổ chức . Trong phạm vi co giãn nào đó thì
các chính sách là những tài liệu chỉ dẫn cho việc ra quyết liệt.
Chính sách khuyến khích được tính tự do sáng tạo nhưng phạm vi tự
do sáng tạo lại tuỳ thuộc vào chức vụ cấp bậc quản lý , mức độ phân
quyền của tổ chức …. -hồ sơ: Là các kế hoạch chỉ ra một cách
chính xác và cụ thể chuỗi các hành động cần thiết phải thực hiện
theo trình tự thời gian hoặc cấp bậc quản lý để đạt được mục tiêu
nhất định . Ví dụ như Thủ tục xuất nhập nguyên vật liệu, hàng hoá ,
giấy tờ tuyển sinh … -Quy tắc : Là loại hình kế hoạch dễ dàng
nhất cho biết những hành động nào có thể làm , những hành động nào
không được làm . Giữa Thủ tục và qui tắc có điểm giống nhéu đó là :
Đều là những hướng dẫn mang tính yêu cầu cho các hoạt động . Nhưng
các qui tắc gắn với việc hướng dẫn hành động mà không bao hàm về
mặt thời gian , trong lúc đó Thủ tục bao hàm qui định trình tự thời
gian cho các hành động . Ví dụ : Qui tắc không được hút thuốc trong
công sở , qui tắc không được sử dung tài liệu trong thi cử . ngoài
ra , các chính sách hướng dẫn việc ra quyết định trong khi qui tắc
cũng là sự hướng dẫn nhưng không cho phép có sự lựa chọn hay sáng
tạo trong khi áp dụng chúng . Như vậy , chính sách có độ linh hoạt
cao hơn so với qui tắc và hồ sơ . Theo thời gian thực hiện kế hoạch
Các kế hoạch được phân ra thành kế hoạch ngắn hạn , trung hạn , dài
hạn. Kế hoạch dài hạn : Là kế hoạch cho thời kỳ từ 5 năm trở lên
nhằm xác định các lĩnh vực hoạt động của tổ chức,xác định các mục
tiêu,chính sách giải pháp dài hạn về tài chính , đầu tư , nghiên
cứu phát triển …do những nhà quản lý cấp cao lập mang tính tập
trung cao và linh động. -Kế hoạch trung hạn: Là kế hoạch cho thời
kỳ từ 1 đến 5 năm nhằm phác thảo các chính sách , chương tình trung
hạn để thực hiện các mục tiêu được định hướng trong chiến lược của
tổ chức.Kế hoạch trung hạn được lập bởi các chuyên gia quản lý cấp
cao , chuyên gia quản lý điều hành cùng lúc ấy nó ít tập trung và
ít dẻo dai hơn kế hoạch dài hạn. -Kế hoạch ngắn hạn : Là kế hoạch
cho thời kỳ dưới 1 năm , là sự chi tiết hoá nhiệm vụ sản xuất kinh
doanh dựa vào mục tiêu chiến lược , kế hoạch , kết quả nghiên cứu
thị trường , các căn cứ xây dựng kế hoạch phù hợp với khó khăn năm
kế hoạch do các chuyên gia quản lý điều hành và chuyên gia quản lý
thực hiện lập nên .Kế hoạch này không mang tính chất tập trung và
thường rất cứng nhắc , ít linh động . Ba loại kế hoạch trên có quan
hệ hữu cơ với nhau .Trong đó, kế hoạch dài hạn giữ vai trò trung
tâm , chỉ đạo trong hệ thống kế hoạch sản xuất kinh doanh của công
ty, là cơ sở để xây dựng kế hoạch trung hạn và kế hoạch hằng năm.
Theo mức chi tiết Bao gồm kế hoạch chi tiết và kế hoạch hoạch định.
-Kế hoạch chi tiết : Là những kế hoạch mà mục tiêu đã được xác định
rất rõ ràng , không có sự mập mờ và hiểu nhầm trong loại kế hoạch
này. -Kế hoạch hoạch định : Là kế hoạch đưa ra những hướng chỉ đạo
chung và có tính linh hoạt .Khi môi trường có độ bất ổn định cao,
khi Doanh nghiệp đang trong giai đoạn hình thành và suy thoái trong
chu kỳ buôn bán của nó thì kế hoạch hoạch định hay được dùng hơn kế
hoạch cụ thể . tuy nhiên, việc phân loại kế hoạch theo các tiêu
thức trên chỉ mang tính chất tương đối ,các kế hoạch có mối quan hệ
qua lại với nhau.Ví dụ như, kế hoạch chiến lược có khả năng bao gồm
cả kế hoạch dài hạn và ngắn hạn nhưng kế hoạch chiến lược nhấn mạnh
bức tranh tổng thể và dài hạn hơn , trong khi đó kế hoạch tác
nghiệp phần lớn là những kế hoạch ngắn hạn. Post Views: 7.599
Leave a Reply