Nguồn gốc của Nhà nước là gì? Bản chất của Nhà nước? Tính xã hội và
tính giai cấp của Nhà nước? Các đặc trưng của Nhà nước? Khó có thể
đưa ra một định nghĩa duy nhất về một hiện tượng phức tạp và nhiều
biến đổi mạnh như nhà nước. Ngay cả những từ điển pháp luật nổi
tiếng trên thế giới, khái niệm nhà nước cũng chỉ nêu lên được một
vài đặc trưng riêng lẻ và cũng chưa thật sự đầy đủ. Mục lục bài
viết 1 1. Nguồn gốc của nhà nước là gì? 2 2. Bản chất của nhà nước:
3 3. Đặc trưng của nhà nước:
1. Nguồn gốc của nhà nước là gì?
Trong lịch sử nhân loại, sự hình thành nhà nước ở thường xuyên khu
vực khác nhéu trên thế giới là một quy trình rất lâu dài,
phong phú, phức tạp và do nhiều yếu tố ảnh hưởng. Theo quan điểm
của học thuyết Mác – Lênin về nguồn gốc nhà nước, F. Ăng ghen trong
tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước
” và Lê-nin trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” đã cho thấy lịch
sử nhân loại đã từng trải qua chế độ cộng sản nguyên thủy, một hình
thái kinh tế – xã hội đầu tiên của loài người không có giai cấp và
nhà nước. Đây là xã hội được cấu thành từ các tổ chức thị tộc, là
kết quả của quy trình cộng cư ổn định của những người có chung
huyết thống. Cơ sở kinh tế của thị tộc là sản xuất tập thể và sở
hữu chung đối với của cải/tài sản của thị tộc. Do việc phân phối
bình quân và năng suất lao động thấp nên trong xã hội cộng sản
nguyên thủy không có sản phẩm dư thừa và cũng đồng thời triệt tiêu
khả năng chiếm đoạt sản phẩm dư thừa làm của riêng. Theo F.
Ăng-ghen, thực chất trong thị tộc đã có sự phân công lao động nhưng
đó là sự phân công mang tính chất tự nhiên giữa các thành viên khác
nhau của thị tộc để thực hiện những công việc thích hợp, đó không
phải là sự phân công lao động xã hội do vị thế xã hội khác nhéu
trong sản xuất và đời sống. Trong thị tộc cũng tồn tại một hệ thống
quản lý thực hiện quyền lực bao gồm: Hội đồng thị tộc: Đây là tổ
chức quyền lực cao nhất của thị tộc, bao gồm những thành viên đã
trưởng thành, có quyền bàn bạc dân chủ và đưa ra những quyết định
tập thể về tất cả những vấn đề quan trọng có liên quan đến thị tộc,
về việc tiến hành các biện pháp cưỡng chế đối với thành viên không
thực hiện theo đúng quyết liệt của thị tộc. Đứng đầu thị tộc là tù
trưởng và thủ lĩnh quân sự do Hội nghị toàn thể thị tộc bầu ra
trong số những người thường xuyên tuổi, thường xuyên kinh nghiệm và
có uy tín nhất trong cộng đồng. Về nguyên tắc, tù trưởng và thủ
lĩnh quân sự không có một đặc quyền riêng nào. mặt khác, trong xã
hội nguyên thủy đã có những cách tổ chức quyền lực cao hơn thị tộc
như bào tộc, bộ lạc, liên minh bộ lạc, nhưng do bản chất có chung
cơ sở kinh tế, nên những tổ chức này cũng giống thị tộc. Như vậy,
quyền lực trong xã hội thị tộc là quyền lực xã hội, không tách rời
xã hội. Do lực lượng sản xuất phát triển, khả năng lao động của con
người phát triển nhanh chóng, năng xuất lao động không ngừng tăng
lên dẫn đến ba lần phân công lao động: 1) Chăn nuôi tách khỏi trồng
trọt; 2) Thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp; 3) buôn bán phát
triển và thương nghiệp xuất hiện. Nhờ có phân công lao động nên
năng suất lao động và sản phẩm xã hội tăng lên nhénh chóng, từ đó
xuất hiện danh mục dư thừa và làm nảy sinh khả năng chiếm đoạt sản
phẩm dư thừa đó. Lợi dụng ưu thế của mình, những người có vị thế xã
hội trong cộng đồng thị tộc – bộ lạc đã chiếm đoạt danh mục dư thừa
của tập thể, dẫn đến hệ quả là tư hữu xuất hiện. Chính tư hữu xuất
hiện đã kéo theo nguyên tắc bình đẳng bị phá vỡ. Mâu thuẫn giai cấp
nảy sinh và dần phát triển tới mức “không thể điều hòa được”. Chính
tồn tại xã hội thay đổi kéo theo sự rất cần thiết phải có một hình
thức tổ chức quyền lực mới thay thế. Tổ chức đó là công cụ quyền
lực của giai cấp nắm ưu thế về kinh tế và là tổ chức thực hiện sự
thống trị giai cấp. Tổ chức đó chính là nhà nước một bộ máy trấn áp
đặc biệt của giai cấp này với giai cấp khác. Như vậy, theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tiền đề kinh tế cho sự ra đời nhà
nước là chế độ tư hữu của cải/tài sản. Tiền đề xã hội cho sự ra đời
nhà nước là sự phân chia xã hội thành các giai cấp (hoặc các tầng
lớp xã hội) mà giữa các giai cấp, tầng lớp đó, những lợi ích cơ bản
đối kháng nhau đến mức không thể điều hòa được. Chính do đó, “nhà
nước” được hiểu là “hình thức (phương thức) tổ chức xã hội có giai
cấp, là tổ chức quyền lực chính trị công cộng đặc biệt, có chức
năng quản lý xã hội để đáp ứng lợi ích trước hết cho giai cấp thống
trị và thực hiện những vận hành nảy sinh từ bản chất của xã hội.”
Thực tế lịch sử ra đời nhà nước sơ khai rất đa dạng, do rất nhiều
tác nhân khác nhau. Ngoài hai tác nhân kinh tế và nguyên nhân xã
hội, sự xuất hiện nhà nước sơ khai (hay còn gọi là nhà nước tiền
công nghiệp) còn có thường xuyên nhân tố khác, với mức độ tác động
nhiều ít, trực tiếp hoặc gián tiếp rất khác nhéu, trong đó có: –
Yếu tố bên trong, như vị trí địa lý, thổ nhưỡng, khí hậu, nguồn
cung cấp thức ăn, giao thông… Chính những yếu tố này là cơ sở để
thu hút sự tập trung dân cư, khiến cho có nơi này nhà nước ra đời
sớm hơn nơi khác, trở thành trung tâm kinh tế – chính trị – văn hóa
sớm hơn các vùng khác; – Yếu tố bên ngoài, như mong muốn hợp nhất
các cộng đồng dân cư tạo sự thuận lợi cho phát triển kinh tế, giao
lưu buôn bán (Inter-Polity Trade); nhu cầu tự vệ trước có khả năng
chiến tranh (War); sự ra đời hay phát triển của các nhà nước láng
giềng (Tributary or Client State Formation); sự cạnh tranh về sinh
thái và chủng tộc (ethnic and ecological competition); sự phát
triển về vũ khí quân sự của các nhà nước láng giềng (military
technology)…; – Các yếu tố văn hóa – kinh tế – khoa học, kĩ thuật,
như sự ra đời của chữ viết, sự ra đời của các thành thị, sự tiến bộ
về kĩ thuật, sự ra đời của tôn giáo, sự tập trung hóa về chính trị,
sự thống nhất về tư tưởng, ý thức hệ. Nguồn gốc của Nhà nước tiếng
anh là “Origin of the state”.
2. Bản chất của nhà nước:
Từ xưa đến nay, các vấn đề về nhà nước luôn là tâm điểm tranh luận
của triết học, luật học, chính trị học trên thế giới, bởi lẽ
nhà nước là một hiện tượng xã hội rất phức tạp, đa dạng, và đặc
biệt luôn vận động và thay đổi ngay theo thời gian. Bản chất nhà
nước là điều cốt lõi trong nhà nước, quy định sự vận động, tồn tại
và phát triển của nhà nước, quy định nội dung, hoạt động và mục
đích tồn tại của nhà nước. Theo học thuyết Mác – Lênin, bản chất
nhà nước được thể hiện ở hai phương diện là vai trò xã hội
(tính xã hội) và tính giai cấp. Hai phương diện này lại tiếp tục
được thể hiện một cách rõ rệt thông qua những đặc điểm, những chức
năng cơ bản, bộ máy nhà nước, ở hình thức, chế độ chính trị. Cũng
giống như các hiện tượng xã hội khác, hai phương diện này vừa có sự
thống nhất, vừa có sự mâu thuẫn nội tại. a. Vai trò xã hội (tính xã
hội) của nhà nước Một thuộc tính khách quan, thường nhật của mọi
nhà nước đó là vai trò xã hội (tính xã hội) của nhà nước. Khách
quan vì đây là thuộc tính không phụ thuộc vào ý muốn con người. phổ
biến vì nó tồn tại ở mọi nhà nước, không phân biệt kiểu nhà nước
nào. Thứ nhất, để tồn tại và phát triển, nhà nước nào cũng phải
quan tâm giải quyết các vấn đề chung của xã hội. Trước tiên nhà
nước được hiểu là một tổ chức quyền lực công cộng. Chẳng hạn, người
Việt Nam ngay từ tấm bé đều đặn biết đến hai hình ảnh “nước dâng
đến đâu, núi đồi cao đến đó” (Sự tích Sơn Tinh – Thủy Tinh) và hình
ảnh “một cậu bé ba tuổi nhổ tre đánh giặc” (Sự tích Thánh Gióng).
Hai hình ảnh đó nhắc nhở người dân Việt Nam rằng ngay từ đầu dân
tộc này đã phải giải quyết hai bắt buộc thường trực, khách quan của
xã hội đó là nhu cầu trị thủy và chống giặc ngoại xâm. Để giải
quyết những công việc này đòi hỏi phải có sự liên kết, một sự tổ
chức thành một thực thể cao hơn làng (công xã nông thôn). Hai yếu
tố trị thủy và chống giặc ngoại xâm không mặc nhiên ra đời nhà
nước, nhưng là những yếu tố khởi đầu, thúc đẩy nhanh quy trình hình
thành nhà nước ở Việt Nam và đồng thời quy định chức năng của nhà
nước sau này. Tính xã hội ở đây thậm chí còn nảy sinh sớm và có
trước cả tính giai cấp. Điều này không phải ngoại lệ vì các nhà
nước đầu tiên ở Phương Đông như Ai Cập, Lưỡng Hà, Trung Quốc, ấn Độ
cổ đại, thậm chí là các nhà nước ở Phương Tây như Hy Lạp hay La Mã,
nhà nước cũng nảy sinh từ xã hội và trước tiên sự ra đời của nó là
với vai trò là một tổ chức quyền lực công cộng, duy trì trật tự, ổn
định xã hội. Thứ hai, bất kỳ nhà nước nào cũng sẽ không thể tồn
tại, phát triển được nếu như giai cấp thống trị tuyệt đối không chú
ý, quan tâm, bảo vệ quyền lợi của các giai cấp, tầng lớp khác, kể
cả những giai tầng không có quan điểm, tiếng nói giống với giai cấp
mình. Chẳng hạn, trong Bộ Quốc triều hình luật thời Lê ở Việt Nam
có rất nhiều những quy định bảo vệ quyền lợi của những người yếu
thế trong xã hội như người già, phụ nữ, trẻ em, nô lệ, người tàn
tật, người cô quả…không chỉ thế, Bộ luật này còn có nhiều quy định
rõ ràng trách nhiệm của quan lại và hệ quả pháp lý trong trường hợp
quan lại không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ của
mình. Hay trong Bộ luật Hammurabi ở Lưỡng Hà cổ đại ở Điều 2 có quy
định về trách nhiệm của Thẩm phán: “Nếu thẩm phán xử một vụ
kiện mà ra phán quyết bằng văn bản, nếu sau đó phát hiện lỗi trong
văn bản là do lỗi của thẩm phán, thẩm phán sẽ phải trả 12 lần giá
trị tiền phạt mà ông ta đã yêu cầu bồi thường trong vụ kiện, cùng
lúc ấy ông ta sẽ bị buộc phải rời khỏi ghế thẩm phán vĩnh viễn và
không bao giờ có thể trở thành thẩm phán lần nữa”. Quy định về
trách nhiệm của thẩm phán cho thấy thời kỳ này rất coi trọng công
tác xét xử, rất coi trọng trách nhiệm xét xử công bằng của thẩm
phán. Cũng trong Bộ luật này đã có một số quy định bảo vệ quyền lợi
của người phụ nữ. Chẳng hạn như quy định người chồng phải có nghĩa
vụ yêu thương, chăm sóc người vợ ở Điều 128: “Nếu người chồng
lấy vợ, nhưng không quan hệ sinh lý với người vợ đó, thì người phụ
nữ này không phải là vợ của y.”* Hoặc quy định người vợ có quyền ly
hôn khi người chồng đi khỏi nhà không có lý do ở Điều 136: “Nếu
người chồng bỏ nhà đi không rõ lý do, khi anh ta trở lại, người vợ
có quyền ly dị.” không những thế luật còn quy định người chồng
không được bỏ vợ khi biết người vợ mắc bệnh nặng. Người chồng phải
có nghĩa vụ nuôi nấng người vợ cho đến hết đời. Thứ ba, mức độ thể
hiện và thực hiện vai trò xã hội của các nhà nước không hoàn
toàn giống nhéu. Tính xã hội của nhà nước chịu sự quy định, chịu sự
ảnh hưởng của thường xuyên yếu tố như: thể chế chính trị, sự phát
triển kinh tế- xã hội, các mối tương quan lực lượng, truyền thống,
phong tục tập quán; hoàn cảnh lịch sử, việc cam kết và thực thi các
điều ước quốc tế… nhiều nhà nước đương đại hiện nay đã thực hiện
rất thường xuyên những chính sách xã hội như chính sách xóa
đói hạn chế nghèo, chính sách an sinh xã hội, chính sách lao động –
việc làm, chính sách bảo vệ môi trường, chính sách về phòng, chống
tội phạm và tệ nạn xã hội….thường xuyên nhà nước đều đặn tuyên bố
và cam kết xây dựng nhà nước pháp quyền, nhà nước dân chủ ở đó
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Họ thiết lập cơ chế phân
quyền, cơ chế giám sát bên trong giữa các bộ phận nhà nước, giữa
các đảng phái chính trị và giám sát bên ngoài nhằm kiểm soát hành
vi của công quyền. Trong phạm vi quốc tế hiện nay, sự phát triển và
phát huy vai trò ngày càng lớn của các hình thức tổ chức tự nguyện
và tự quản phi vụ lợi. Xã hội hiện đại cũng chứng kiến vai trò ngày
càng lớn của các Doanh nghiệp xuyên quốc gia trong việc cung cấp
tri thức và công nghệ quan trọng nhất cho các nền kinh tế. Các tổ
chức xã hội dân sự đóng vai trò tư vấn chính sách, phản biện xã
hội, tổ chức các công việc công ích để phục vụ các nhu cầu của cộng
đồng xã hội mà nhà nước và thị trường không đủ khả năng đảm nhận.
Nhà nước không những đơn thuần định ra, thiết lập các quy tắc chính
thức, áp dụng cưỡng chế bắt các tổ chức và cá nhân phải tuân theo,
mà nhà nước còn là một “đấu thủ quan trọng nhất trong các trò chơi
kinh tế”. Trong xã hội hiện đại, trước những thay đổi to lớn đang
diễn ra trong cuộc sống chính trị – xã hội ở các quốc gia khác
nhau, vai trò của nhà nước và dịch vụ công cùng các mong muốn về
bảo đảm an toàn, an ninh không ngừng tăng lên. b. Tính giai cấp của
nhà nước Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, nhà nước nào
cũng có tính giai cấp sâu sắc. Hay nói cách khác, tính giai cấp của
nhà nước cũng là một thuộc tính khách quan và thường nhật tồn tại ở
mọi nhà nước. Điều này thể hiện ở những nội dung sau: Thứ nhất, nhà
nước chỉ ra đời trong xã hội có giai cấp. Hay nói cách khác. trong
chế độ cộng sản nguyên thủy, khi chưa có tư hữu xuất hiện, chưa có
sự phân hóa giai cấp, thì ở đó chưa có nhà nước. Thứ hai, nhà nước
là do giai cấp thống trị xã hội tổ chức nên, đáp ứng quyền lợi chủ
yếu, trước hết là cho giai cấp thống trị xã hội. Từ khi nhà nước
xuất hiện đến nay thì tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố như chế độ
chính trị, tương quan lực lượng giai cấp, những khó khăn kinh tế,
văn hóa xã hội, đảng phái, bối cảnh kinh tế, quốc tế vv… mà mức độ
thể hiện cũng như phương diện thực thi tính giai cấp luôn có sự
khác nhéu nhất định. Chẳng hạn, trong nhà nước phong kiến Việt Nam,
tính giai cấp được thể hiện ở chỗ nhà nước là do giai cấp
thống trị tổ chức nên, bảo vệ quyền lợi cho nhà vua, giai cấp địa
chủ. Thông qua việc phong cấp đất cho quý tộc, pháp luật cũng có sự
ưu ái cho những quan lại trong bộ máy nhà nước, ví dụ Điều 3 của Bộ
luật Hồng Đức về chế độ Bát nghị. tuy nhiên, xét toàn diện thì mức
độ thể hiện, mức độ thực thi quyền lực ở các triều đại ở Việt Nam
cũng không hoàn toàn giống nhau. Trong lịch sử Việt Nam có những
triều đại xuất hiện những vị vua anh minh, tiến hành nhiều cuộc cải
cách thành công như dưới thời trị vì của vua Lý Thánh Tông, Trần
Nhân Tông, Lê Thánh Tông và thường xuyên vị vua khác. Thứ ba, sự
thống trị của giai cấp được thể hiện trên ba mặt là kinh tế, chính
trị và tư tưởng. Xét một cách lô-gích, thông qua nhà nước,
giai cấp thống trị về kinh tế trở thành giai cấp thống trị về chính
trị. Cũng vì nắm được quyền lực nhà nước, hệ tư tưởng của giai cấp
thống trị trở thành hệ tư tưởng thống trị xã hội. Quyền lực chính
trị do thường xuyên tổ chức thực hiện, nhưng nhà nước là công cụ
chủ yếu của quyền lực chính trị. Tóm lại, theo cách hiểu của chủ
nghĩa Mác – Lênin, nhà nước là một bộ máy, công cụ quyền lực
đặc biệt, là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, bộ máy
để thực hiện nền chuyên chính của giai cấp thống trị xã hội, đảm
bảo thực hiện những nhiệm vụ giai cấp và những nhiệm vụ chung nảy
sinh từ bản chất của xã hội.
3. Đặc trưng của nhà nước:
Các nhà nước trong lịch sử có sự khác nhau về bản chất, nhưng tất
cả các nhà nước đều có những đặc trưng (dấu hiệu) cơ bản chung.
Những đặc trưng này để phân biệt nhà nước với các tổ chức chính trị
– xã hội, với tổ chức thị tộc nguyên thủy trước kia. hiện nay có
thường xuyên quan niệm khác nhéu về những đặc trưng chủ yếu của nhà
nước, nhưng về cơ bản có hai luồng quan điểm cơ bản sau đây: Quan
niệm thứ nhất có tính truyền thống thể hiện trong các giáo trình Lý
luận nhà nước và pháp luật nêu rõ nhà nước có 5 đặc trưng cơ bản
sau đây: Thứ nhất, Nhà nước là tổ chức quyền lực chính trị công
cộng đặc biệt với bộ máy thực hiện cưỡng chế và quản lý đời sống xã
hội. Thứ hai, Nhà nước có lãnh thổ và thực hiện sự quản lý dân cư
theo theo các đơn vị hành chính lãnh thổ (dấu hiện dân cư và lãnh
thổ). Thứ ba, nhà nước có chủ quyền quốc gia. Thứ tư, nhà nước là
tổ chức duy nhất có quyền ban hành pháp luật và đảm bảo sự thực
hiện pháp luật. Thứ năm, nhà nước quy định các loại thuế và thực
hiện thu thuế dưới hình thức yêu cầu. – Đặc trưng 1: Nhà nước là tổ
chức quyền lực chính trị công cộng đặc biệt với bộ máy thực hiện
cưỡng chế và quản lý cuộc sống xã hội. Khi xuất hiện nhà nước đã
lập nên quyền lực chính trị đặc biệt. Nhà nước là tổ chức quyền lực
đặc biệt, không còn hoà nhập với dân cư nữa. không những thế, nhà
nước còn có bộ máy cưỡng chế gắn liền vớiquân đội, cảnh sát, nhà
tù, trại giam và những cơ quan cưỡng chế khác. Đây là những cơ quan
mà không tồn tại trong chế độ thị tộc nguyên thủy tương đương
trong các tổ chức khác. Bản chất của quyền lực chính trị của nhà
nước thuộc về một thiểu số giai cấp thống trị. Cùng với sự
phát triển của xã hội, bộ máy nhà nước đã được hoàn thiện để thực
hiện quản lý xã hội. – Đặc trưng 2: Nhà nước có lãnh thổ và thực
hiện sự quản lý dân cư theo theo các đơn vị hành chính lãnh thổ
(dấu hiện dân cư và lãnh thổ). Phạm vi thực hiện quyền lực của nhà
nước là trên toàn bộ lãnh thổ nhà nước. Nhà nước quản lý dân cư
theo các đơn vị hành chính, không phụ thuộc vào quan điểm chính
trị, nam hay nữ, huyết thống, nghề nghiệp nhằm đảm bảo cho sự quản
lý tập trung, thống nhất của nhà nước. Mối quan hệ giữa người dân
với nhà nước được thể hiện rõ nhất thông qua chế định quốc tịch,
một chế định xác lập sự phụ thuộc của công dân vào một nhà nước
nhất định và tương ứng, nhà nước cũng phải có những nghĩa vụ nhất
định đối với công dân của mình. Việc quản lý dân cư theo lãnh thổ ở
đây không giản đơn chỉ áp dụng đối với người mang quốc tịch nước sở
tại mà cả với người nước ngoài, cho dù quy chế pháp lý của người
nước ngoài hạn chế và khác với công dân nước sở tại. – Đặc trưng 3:
Nhà nước có chủ quyền quốc gia Chủ quyền quốc gia là quyền tối cao
của nhà nước về đối nội và độc lập về đối ngoại. Hay nói cách khác,
chủ quyền quốc gia là quyền tự quyết của quốc gia đó về các vấn đề
đối nội và đối ngoại. Nhà nước là người đại diện chính thức, đại
diện về mặt pháp lý cho toàn xã hội về đối nội và đối ngoại. Chủ
quyền quốc gia thể hiện tính độc lập và không phụ thuộc của nhà
nước trong việc giải quyết các công việc đối nội và đối ngoại của
mình. Khái niệm chủ quyền quốc gia cũng chỉ là khái niệm tương đối.
Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, bảo vệ chủ
quyền quốc gia không đồng nhất với đóng cửa không giao lưu với các
quốc gia, các tổ chức quốc tế khác. Ngược lại, việc tham gia hợp
tác quốc tế cũng không có nghĩa là đánh mất chủ quyền quốc gia. Nhà
nước cũng như mọi sự vật, hiện tượng khác không thể tồn tại trong
sự tách rời, biệt lập với các quốc gia khác. xu hướng toàn cầu hóa
hiện nay cho thấy rằng nhà nước nào cũng tham gia vào thường xuyên
tổ chức quốc tế, diễn đàn quốc tế và cùng chia sẻ lợi ích, cùng
gánh vác những nghĩa vụ khác nhéu. Ví dụ: Việt Nam đang tham gia
các tổ chức quốc tế như: ASEAN, FAO, IAEA, ILO, IMF, UN, UNCTAD,
UNESCO, WFTU, WHO, WIPO, WMO, APEC, ASEM…; rất nhiều lý do toàn cầu
phát sinh đòi hỏi sự chung sức của nhiều quốc gia: AIDS, Cúm gia
cầm H5N1, Nạn khủng bố, môi trường… – Đặc trưng 4: Nhà nước là tổ
chức duy nhất có quyền ban hành pháp luật và đảm bảo sự thực hiện
pháp luật. Nhà nước là đại diện chính thức cho toàn xã hội. Chỉ có
nhà nước mới có quyền ban hành pháp luật và quản lý dân cư, các
hoạt động xã hội bằng pháp luật. Pháp luật có tính yêu cầu chung,
được đảm bảo thực hiện bằng nhà nước với các biện pháp tổ chức,
cưỡng chế, thuyết phục tùy theo bản chất nhà nước và những khó khăn
khách quan khác. Các tổ chức thị tộc nguyên thủy và với các tổ chức
phi nhà nước không có đặc trưng này.. – Đặc trưng 5: Nhà nước có
quyền định ra và thu những loại thuế dưới cách thức bắt buộc Nhà
nước nào cũng có quyền định ra và thu các loại thuế dưới cách thức
bắt buộc. Thuế được sử dụng để nuôi sống bộ máy nhà nước, thực
hiện các vận hành chung của toàn xã hội. Mục đích cơ bản của việc
thu thuế là để nuôi sống một bộ máy nhà nước, những cán bộ công
chức, những người không trực tiếp làm ra của cải vật chất cho xã
hội. Chỉ nhà nước mới được thu thuế, các tổ chức khác không phải là
nhà nước không có đặc trưng này. Chẳng hạn, một lớp học thu quĩ lớp
để phục vụ cho công việc của lớp; Đoàn thanh niên thu đoàn phí để
tri trả cho vận hành Đoàn; Câu lạc bộ bóng đá thu tiền để tri trả
cho vận hành chung…đó không phải là thu thuế. Từ vấn đề bộ máy nhà
nước, dân cư và lãnh thổ, chủ quyền quốc gia thực chất đều đặn do
pháp luật và đương nhiên vấn đề thuế cũng vậy, đây là những vấn đề
quan trọng, cần thiết và đều là đối tượng điều chỉnh của pháp luật.
tuy nhiên mục đích của việc đưa ra 5 đặc trưng cuối cùng là để chỉ
ra những đặc điểm riêng của nhà nước mà các tổ chức, đơn vị phi nhà
nước không có được. Quan niệm thứ hai về ba đặc trưng cấu thành nhà
nước: Từ đầu thế kỷ XX, một học giả người Đức có tên là Georg
Jellinek đã đưa ra luận thuyết ba yếu tố (Drei-Elemente-Lehre)
trong đó khẳng định một nhà nước có ba khó khăn cấu thành bao gồm
dân cư (Staatsvolk), lãnh thổ (Staatsgebiet) và chủ quyền
(Staatsgewalt).68 Đây cũng là ba đặc trưng riêng có của nhà nước để
phân biệt với các tổ chức khác. Luận thuyết ba yếu tố của Georg
Jellinek được nhắc đến rất nhiều trong các công trình khoa học về
nhà nước. nhiều cuốn từ điển luật học nổi tiếng trên thế giới cũng
dựa trên luận thuyết này để đưa ra khái niệm nhà nước. Chẳng hạn,
theo Từ điển luật học) ở Đức của tác giả Creifelds, nhà nước được
hiểu là “một cộng đồng của các các cá nhân trong một tổ chức chính
trị của mình, tổ chức ấy bao gồm lãnh thổ (ein Staatsgebiet), dân
cư (ein Staatsvolk) và hệ thống chính quyền có chủ quyền (eine
Staatsgewalt).”69 Tương tự, theo Từ điển lịch sử pháp luật Châu Âu
của tác giả Koebler, nhà nước là một tổ chức thỏa mãn ba điều kiện
dân cư, lãnh thổ và quyền lực. Nhà nước trước hết phải có dân cư,
bao gồm những người có cùng chung một quốc tịch. ngoài ra, nhà nước
nào cũng có một lãnh thổ giới hạn, trong đó dân cư sinh sống và tổ
chức quyền lực. bên cạnh đó, nhà nước phải có chủ quyền, chủ quyền
ấy thể hiện ở việc quản lý của nhà nước đối với dân cư theo lãnh
thổ, thể hiện ởquyền tự quyết của nhà nước đó trong các vấn đề đối
nội và đối ngoại. Nhà nước có khả năng được gọi tắt, thông qua
những đại diện như các bộ phận nhà nước, nhân viên nhà nước hoặc
các tổ chức. Nhà nước theo nghĩa là pháp nhân của luật công như ở
Đức Hiện tại bao gồm liên bang và tiểu bang. Tùy cách giải thích về
chính trị mà nhà nước có khả năng được giải thích thành nhà nước
cảnh sát, nhà nước pháp quyền, nhà nước xã hội, Nhà nước phúc lợi
chung. Theo dõi công ty chúng tôi trên 5 / 5 ( 1 bình chọn ) Gọi
luật sư ngay Tư vấn luật qua Email Báo giá trọn gói vụ việc Đặt
lịch hẹn luật sư Đặt câu hỏi tại đây Nhà nước của dân, do dân, vì
dân là một nguyên tắc bất biến trong quá trình vận hành và phát
triển của Nhà nước Việt Nam. Dưới đây là bài phân tích về nguyên
tắc để xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Bí thư Tỉnh ủy là
người đứng đầu Ban chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam ở một
tỉnh, đứng đầu Ban thường vụ Tỉnh ủy. Vậy thu nhập Bí thư tỉnh ủy
2023 là bao nhiêu tiền một tháng? Bài viết dưới đây sẽ phân tích
làm rõ. Nhà nước pháp quyền là gì? Vai trò, bản chất của nhà nước
pháp quyền? Vai trò của nhà nước pháp quyền. Bản chất của nhà nước
pháp quyền. Giải pháp để hoàn thiện cơ chế nhà nước pháp quyền
XHCH. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Bản chất của nhà
nước được thể hiện qua hai thuộc tính: Bản chất giai cấp và bản
chất xã hội. Bài viết dưới đây, chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu bản
chất và các chức năng của Nhà nước CHXHCN Việt Nam.
Leave a Reply