phat20hoc
Mục đích khác với phương thuận tiện. Mục đích là cái nhắm đến, cái
vạch ra làm đích nhằm đạt cho được. Phương tiện là cái dùng để làm
một việc gì, là cách thức thực hiện để đạt một mục đích nào đó. Ví
dụ chiếc xe là phương thuận tiện, mục đích là để đi lại. Xe là
phương tiện đi lại để phục vụ mình, nếu ta quá xem trọng, sẽ bị
vướng kẹt vào nó. Thay vì làm chủ nó, ta trở thành nô lệ. Một chút
hư hỏng, ta thấy mình cũng khổ sở đau đớn, đôi khi trầy xước chút
sơn thôi, lòng ta cũng đau như một vết dao cứa. Có lần tôi cùng với
một gia đình nọ ngồi trong chiếc Lexus cáu cạnh họ mới mua. Trên xe
có đứa cháu gọi vợ chồng chủ xe là bác ruột, đi nửa đường thì cháu
bé nôn ói, tìm bịch ny-lon không có, sợ bẩn xe, cô chủ cởi hai
chiếc áo của đứa cháu đang mặc làm đồ đựng nôn ói, miệng thì quát
chồng cho xe vào lề đường để vứt đồ bẩn đang đựng tạm bợ bởi hai
chiếc áo quấn lại. Tôi ngồi lặng lẽ quan sát hành động của cô chủ
mà ngẫm nghĩ về tình đời, tình người. Sao lại đối xử với đứa cháu
mình như thế. Chẳng lẽ giá trị con người không bằng chiếc xe sao.
Xe đáp ứng mình hay mình đáp ứng xe. Mua xe về để tôn thờ, phục vụ
nó thì mình không biết đâu là phương tiện, đâu là mục đích rồi.
Trong việc tu tập, học hỏi giáo lý, thọ Bát quan trai giới, tụng
kinh, ăn chay, niệm Phật, trì chú… đều là phương thuận tiện nhằm
thể hiện Phật chất trong cuộc sống. Thế nhưng chúng ta lấy phương
tiện làm mục đích, xem việc ăn chay, tụng kinh làm thước đo tu tập
của mình. Ta ăn chay nhiều, tự cho đã tu giỏi hay tụng kinh thường
xuyên, tự hào đã tu cao, xem thường hoặc khinh khi người không biết
ăn chay hay ăn chay ít. Đây là một vướng mắc, kẹt vào phương thuận
tiện. Kẹt vào phương thuận tiện thì không thể đạt đến giải thoát
được. Ăn chay không phải mục đích của sự tu tập, chỉ là phương
thuận tiện để phát triển lòng từ bi. Nếu ăn chay mà có tâm hiểm ác,
hại người, đối xử bất nhân với đồng loại, thì ăn chay như vậy không
mấy lợi ích, chẳng khác nào làm tường rào để ngăn ngừa không cho
trâu bò vào phá hoại vườn hoa, nhưng bên trong thì để cỏ dại mọc um
tùm. Hơn nữa, ăn chay mà tự hào cho mình tu giỏi, xem thường hoặc
khinh chê người ăn chay thua mình, thì rơi vào tâm lý kiêu mạn.
Chính điều này mà Tuệ Trung Thượng Sĩ bảo ăn chay chuốc thêm tội,
chứ không được phúc: “Trì giới và nhẫn nhục/Thêm tội chẳng được
phúc”. Ăn chay vốn là phương thuận tiện để đạt đến lòng từ rộng
lớn, nhưng nếu không khéo ta lại biến nó thành vật chướng ngại trên
tiến trình tu tập giải thoát của mình. Thực ra ăn chay hay ăn mặn
không có can hệ gì đến mục đích tu tập giác ngộ cả. Giác ngộ hay
không là do trí tuệ quyết định. Ngày xưa Đức Phật và các vị La-hán
sống đời khất thực, dân chúng bố thí gì thì ăn nấy, bố thí chay thì
ăn chay, bố thí mặn thì ăn mặn. Các Ngài ăn một cách tự tại vô phân
biệt. Chúng ta thì ăn trong phân biệt, các món mặn thì khoái khẩu,
thích ăn hơn. Chúng ta chưa đạt đến hành động duy tác, tức hành
động không khởi ý phân biệt, thì cách hấp dẫn nhất là ăn chay để
tránh ác nghiệp, nhưng nên nhớ ăn chay chỉ là phương tiện, chứ
không phải mục đích tu tập nhắm đến để bị vướng kẹt vào đó. Tụng
kinh cũng không phải là mục đích tu tập, mà chỉ là tìm hiểu lời
Phật dạy để ứng dụng vào đời sống mang lại hạnh phúc cho mình và
tha nhân. Hẳn nhiên trong lúc tụng kinh, do sự tập trung chú ý vào
lời kinh, ba nghiệp thân khẩu ý không bị ngoại duyên chi phối nên
không tạo nghiệp bất thiện, nhưng nó chỉ có tính cách tạm thời, như
lấy đá đè lên cỏ, bỏ đá đi thì cỏ mọc trở lại. Cho nên tụng kinh
phải “minh Phật chi lý”, hiểu rõ lý mầu của Phật, để áp dụng vào
cuộc sống. Nếu Phật tử chúng ta nhiều đi chùa tụng kinh mà trong
đời sống nói xấu người này, đố kỵ người kia, tị hiềm người nọ, thì
tụng kinh như vậy chẳng ích lợi gì, chỉ mất thì giờ. Hoặc có người
tụng kinh rất giỏi, thuộc làu thường xuyên bộ kinh, nhưng khi gặp
chuyện trái ý, phật lòng, giận dữ nổi lên như phong ba bão táp, thì
việc tụng kinh đó cũng vô nghĩa. Chẳng hạn ra đường ai đó vô ý va
quẹt mình, người này không biết lỗi, lại quát mắng, chúng ta sân
hận mắng chửi lại, sự việc có khi leo thang kéo theo ẩu đả gây ra
thương tích. Trong trường hợp này nếu là người tụng kinh “giỏi”, ta
xin lỗi người đó, dù không phải lỗi của mình, thì sự việc trở nên
tốt đẹp. Thông thường khi có sự tranh chấp, mâu thuẫn xảy ra, chúng
ta hay có khuynh hướng đổ lỗi cho người khác. Theo thầy Thích Trí
Siêu trong Dòng đời vô tận thì có ba trường hợp sau đây: 1. Người
chưa biết đạo thì luôn cho mình đúng và người kia lỗi trăm phần
trăm. 2. Người bắt đầu học đạo, biết tu thì thấy cả hai bên đều có
lỗi, năm mươi-năm mươi. 3. Người hiểu đạo thì thấy mình lỗi một
trăm phần trăm. Người chưa biết đạo thì luôn cho mình đúng một trăm
phần trăm. Vì vô minh, chấp ngã, xem cái ta là trung tâm điểm của
vũ trụ, cái gì hợp ý hợp lòng ta thì đúng, trái ý nghịch lòng ta là
sai. Cho nên ai làm điều gì trái lòng mình, ta giận dữ bắt lỗi họ.
Người bắt đầu tu và biết đạo thì có khá hơn một chút, không đổ lỗi
hoàn toàn cho người khác mà thấy mình cũng có phần lỗi trong đó. có
thể lúc đầu không nghĩ mình có lỗi, ta rất giận dữ bực tức, mắng
nhiếc lại người khác, nhưng sau đó nhận ra mình cũng có lỗi nên im
lặng bỏ đi. Thông thường khi giận tức ai, ta nghĩ mình đúng, họ
sai. Nếu càng nghĩ mình đúng thì cơn giận càng gia tăng. Trái lại,
nếu nghĩ mình sai, có lỗi thì cơn giận sẽ lắng dịu và ít đi. Nếu
thấy mình hoàn toàn có lỗi, cơn giận sẽ tiêu tan. Người biết tu,
hiểu đạo thì thấy mình lỗi một trăm phần trăm, cho nên nhẹ nhàng tự
tại, không giận hờn ai cả, chỉ quán chiếu nhân duyên, nhân quả, xem
trong đời này mình đã làm tổn thương gì đến người khác không, nếu
không thì có khả năng là các đời trước đó, mình đã có thể gây ra
tổn thương họ nên bây giờ họ gây ra sự để đáp trả. Thấy mình không
lỗi mà vẫn xin phép lỗi, đó là thể hiện Phật chất trong đời, ứng
dụng trí tuệ của Phật vào đời sống. Thông thường ở đời nếu mình
không lỗi mà xin lỗi thì bị xem là ngu, nhưng người hiểu đạo và
biết tu thì đó là trí tuệ. Trí tuệ trong đạo Phật khác với trí tuệ
ở thế gian. Trí tuệ ở thế gian gắn liền với phiền não, trí tuệ
trong đạo Phật liên lạc đến tự tại giải thoát. Người đời thấy vàng
bạc tham lam nổi lên lóa mắt mất hết cả đạo đức. Người tu thấy vàng
bạc như gạch ngói nên ung dung tự tại. Đó là cái nhìn bằng tuệ giải
thoát trong đạo Phật. Phật tử chúng ta phần lớn không biết chính
xác mục đích tụng kinh là gì, cho nên đi tụng kinh mà tranh nhéu
một chỗ đứng, giành nhéu một chỗ ngồi. Mình tranh một chỗ đứng tốt,
giành một chỗ ngồi đẹp, thì người bạn đạo của mình sẽ đứng chỗ
không tốt, ngồi chỗ không đẹp. Thế thì tinh thần yêu thương, vị tha
đâu, điều mà chúng ta tụng trong kinh điển mỗi ngày? Tụng kinh mục
đích là để chúng ta có trái tim biết yêu thương và vị tha hơn, chứ
không phải để Phật chấm công mình tu nhiều hay ít. Trong kinh Trung
bộ, Đức Phật nói giáo pháp của Ngài giống như chiếc bè để qua sông.
Ai muốn qua bên kia sông thì dùng chiếc bè làm phương tiện để qua,
ai muốn đạt đến giác ngộ giải thoát thì nương vào giáo pháp của
Ngài để tu tập. Mục đích bước lên chiếc bè là để qua sông chứ không
phải thấy chiếc bè đẹp quá rồi ở mãi trên đó. Cũng vậy, mục đích
tụng đọc kinh điển là để đoạn trừ các tâm cấu uế, cắt đứt các nhân
tố tâm lý đem lại khổ đau chứ không phải thấy kinh điển hay quá rồi
ôm tụng đọc suốt ngày mà không ứng dụng được gì vào thực tiễn đời
sống. Người thỏa mãn với chiếc bè, bằng lòng với việc tụng đọc kinh
điển được Đức Phật ví như người đi tìm lõi cây mà chỉ mang về cành
lá, vỏ cây và giác cây. Lõi cây là mục tiêu giải thoát mà người tu
tập nhắm đến. Học hỏi giáo pháp, tụng đọc kinh điển, tham thiền,
niệm Phật chỉ là công đoạn trảy cành lá, đẽo vỏ cây và giác cây,
mục đích là lấy được lõi cây, tức thể hiện được an vui giải thoát
trong cuộc đời. Học pháp mà để huyền đàm, triết lý suông, không đem
lại lợi ích thiết thực, Đức Phật ví như người bắt rắn, không bắt ở
đầu mà bắt ở lưng hay đuôi nên bị nó quay lại cắn. Như Tô Đông Pha
là người học pháp uyên thâm, thường làm thơ ngợi ca Đức Phật, nhưng
khi bị Thiền sư Phật Ấn phê thơ ông dở như cái “đánh rắm”, thì ông
nổi giận lôi đình. nhiều người đi chùa lâu năm, tụng kinh, ăn chay,
ngồi thiền, niệm Phật, làm công quả, nghe pháp, học hỏi giáo lý
nhưng những điều này không thể chứng minh một người tu giỏi được.
Đánh giá một người tu giỏi hay không là nhìn vào lối sống và cách
cư xử của họ. Người nào còn tánh tham thường xuyên, cái gì cũng
muốn vơ vét về cho mình hoặc gặp cảnh nghịch ý thường hay nổi giận,
thấy ai hơn mình cái gì, tỏ ra khó chịu, tranh giành ăn thua với
người khác, thì người đó tu chưa giỏi, mặc dù đi chùa nhiều, tụng
kinh hay. Người nào biết bố thí, làm phước, cúng dường, không bỏn
sẻn keo kiệt; hoan hỷ khi thấy người khác hơn mình, khiêm cung lễ
độ, nói lời từ ái, không chỉ trích chê bai người khác; biết yêu
thương, tha thứ, khoan dung và độ lượng thì người đó được xem là tu
giỏi.
Leave a Reply