Những điểm mới về đồng phạm được quy định tại phần chung Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và kiến nghị, đề xuất – Trang thông tin điện tử Tòa án nhân dân huyện Phú Ninh
5-Nhung-diem-moi-ve-dong-pham-duoc-quy-dinh-tai-phan-chung-Bo-luat-Hinh-su
Những quy định về đồng phạm không phải là tình tiết tăng nặng, cũng
không phải là tình tiết định khung hình phạt, nhưng trong một vài
trường hợp, đồng phạm có ý nghĩa rất lớn đến việc xác định có dấu
hiệu của tội phạm hay không. Từ đó cho thấy việc tìm hiểu và làm rõ
vấn đề đồng phạm có ý nghĩa và tầm quan trọng rất lớn cả về lý luận
và thực tiễn trong điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự có
thường xuyên đối tượng tham gia. Đồng phạm là những người cùng tham
gia vào việc thực hiện một tội phạm như: cùng thực hiện tội phạm có
khả năng là trực tiếp thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành
tội phạm (là người thực hành), thực hiện hành vi chủ mưu, chỉ huy,
cầm đầu việc thực hiện tội phạm (là người tổ chức), người thực hiện
hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm
(là người xúi giục); tạo khó khăn về tinh thần hay vật chất cho
người khác thực hiện tội phạm (là người giúp sức). Khi thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội, mỗi người đồng phạm không những cố ý
với hành vi phạm tội của mình mà còn biết và mong muốn sự cùng tham
gia của những người đồng phạm khác. Cùng cố ý trong đồng phạm được
thể hiện trên hai phương diện về lý trí và ý chí. Về lý
trí: mỗi người đồng phạm đều nhận thức được tính chất nguy
hiểm đối với hành vi của mình, nhận thức được tính chất nguy hiểm
của những người đồng phạm khác, thấy trước được việc gây ra ra hệ
lụy chung của hành vi phạm tội đó. Về ý chí: những người
đồng phạm khi thực hiện hành vi đều đặn nhu cầu cùng thực hiện tội
phạm và nhu cầu hệ lụy chung của tội phạm xảy ra. Điều 17 Bộ luật
hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về đồng phạm
như sau: “Điều 17. Đồng phạm1. Đồng phạm là trường hợp có hai người
trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.2. Phạm tội có tổ chức là
cách thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng
thực hiện tội phạm.3. Người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người
thực hành, người xúi giục, người giúp sức.Người thực hành là người
trực tiếp thực hiện tội phạm.Người tổ chức là người chủ mưu, cầm
đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.Người xúi giục là người kích
động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.Người giúp sức
là người tạo khó khăn tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện
tội phạm.4. Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về
hành vi vượt quá của người thực hành”. Như vậy, để thoả mãn quy
định về đồng phạm cần có những khó khăn sau đây: Thứ
nhất: phải từ hai người trở lên, những người này phải có đủ
dấu hiệu về chủ thể của tội phạm. Đây là khó khăn về tiềm lực trách
nhiệm hình sự và độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của
pháp luật. Thứ hai: cố ý cùng thực hiện một tội phạm, tức là
mỗi người trong đồng phạm đều có hành vi tham gia vào việc thực
hiện tội phạm, hành vi của mỗi người được thực hiện có sự liên kết
với nhau, hành vi của người này hỗ trợ, bổ sung cho hành vi của
người khác và ngược lại, hành vi phạm tội của mỗi người đều đặn nằm
trong vận hành phạm tội của cả nhóm, với mục đích chung là đạt được
kết quả thực hiện tội phạm. do đó, sẽ không được coi là đồng phạm
khi một số người đã cùng thực hiện một tội phạm và cùng một thời
gian nhưng giữa những người này không có sự bàn bạc, liên hệ, ràng
buộc, hỗ trợ lẫn nhau mà hành vi của từng người đều thực hiện độc
lập. 1. một số điểm mới về đồng phạm: So với quy định của Bliên hệS
năm 1999, thì về cơ bản Bliên lạcS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm
2017 giữ nguyên các nội dung quy định về đồng phạm của Bliên hệS
năm 1999 và có một số điểm mới như sau: Thứ nhất, về mặt kỹ
thuật lập pháp thì Điều 17 Bliên hệS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm
2017 được quy định thành 4 khoản (so với Bliên lạcS năm 1999 chỉ
gồm 3 khoản), chi tiết là: Khoản 2 Điều 20 Bliên lạcS năm 1999 quy
định: “2. Người tổ chức, người thực hành, người xúi giục,
người giúp sức đều là những người đồng phạm” thì được sửa đổi
thành khoản 3 của Điều 17 Bliên lạcS năm 2015 và có sự thay đổi về
kết cấu khi quy định như sau: “3. Người đồng phạm bao gồm
người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức”
Khoản 3 Điều 20 Bliên lạcS năm 1999 quy định về phạm tội có tổ chức
được chuyển thành khoản 2 Điều 17 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung
năm 2017. Như vậy, Điều 17 Bliên lạcS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm
2017 thay đổi trật tự các khoản của Điều 20 của Bliên lạcS năm 1999
là phù hợp và đảm bảo được tính logic cả về mặt nội dung và cách
thức của quy định về đồng phạm. Theo quy định của Điều 20 Bliên
lạcS năm 1999 thì phạm tội có tổ chức được đặt ở vị trí sau nội
dung quy định về những loại người đồng phạm. Theo Chúng Tôi, cách
thức đặt vị trí của Điều 20 Bliên hệS năm 1999 là chưa phù hợp. Bởi
vì, trong khoa học pháp lý hình sự thì tội phạm có tổ chức là hình
thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực
hiện tội phạm, là trường hợp thường xuyên người cố ý cùng bàn bạc,
cấu kết chặt chẽ với nhéu, vạch ra các kế hoạch để thực hiện một
tội phạm dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu. Khác với
các vụ án đồng phạm trong trường hợp bình thường là chỉ cần có hai
người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm thì phạm tội có tổ
chức bên cạnh phải thỏa mãn các dấu hiệu yêu cầu của một vụ án đồng
phạm mà còn phải thỏa mãn dấu hiệu “câu kết chặt chẽ” giữa những
người đồng phạm. Sự câu kết này theo Nghị quyết số 02/HĐTP/NQ ngày
16/11/1988 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có thể
thể hiện dưới các dạng như: – Những người đồng phạm đã tham gia một
tổ chức phạm tội như: đảng phái, hội, đoàn phản động, băng, ổ trộm,
cướp… có những tên chỉ huy, cầm đầu. tuy nhiên, cũng có khi tổ chức
phạm tội không có những tên chỉ huy, cầm đầu mà chỉ là sự tập hợp
những tên chuyên phạm tội đã thống nhất cùng nhau hoạt động phạm
tội. – Những người đồng phạm đã cùng nhéu phạm tội nhiều lần theo
một kế hoạch đã thống nhất trước. – Những người đồng phạm chỉ thực
hiện tội phạm một lần, nhưng đã tổ chức thực hiện tội phạm theo một
kế hoạch được tính toán kỹ càng, chu đáo, có chuẩn bị phương tiện
vận hành và có khi còn chuẩn bị cả kế hoạch che giấu tội phạm. do
đó, phạm tội có tổ chức là một cách thức đặc biệt của đồng phạm.
Chính Vì vậy, về mặt kỹ thuật lập pháp để đảm bảo tính hợp lý về
kết cấu các nội dung trong cùng một điều luật thì phạm tội có tổ
chức cần được sửa đổi đặt ngay sau khái niệm về đồng phạm như quy
định của Điều 17 Bliên hệS năm 2015, là hợp lý và rất cần thiết.
Thứ hai, về mặt nội dung, thì Điều 17 BLHS năm 2015, sửa đổi
bổ sung năm 2017 đã bổ sung thêm nội dung “Người đồng phạm không
phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực
hành” vào khoản 4 Điều 17 Bliên lạcS. Như vậy, các nội dung
tại Điều 17 Bliên lạcS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định
về đồng phạm chỉ có một điểm mới so với Điều 20 BLHS năm 1999 là
ghi nhận hành vi vượt quá của người thực hành. công ty chúng tôi
cho rằng đây là một điểm mới và tích cực của Bliên lạcS năm 2015,
sửa đổi bổ sung năm 2017 khi đã khắc phục được một phần những vướng
mắc, bất cập trong thực tiễn xét xử đối với hành vi vượt quá của
người thực hành mà Bliên lạcS năm 1999 còn hạn chế. Thực tiễn cho
thấy không phải mọi trường hợp những người thực hành đều thực hiện
đúng và đầy đủ các hành vi đã được thỏa thuận trước khi thực hiện
tội phạm mà trên thực tế những người thực hành có thể thực hiện
hành vi vượt quá yêu cầu của những người đồng phạm khác, khoa học
luật hình sự gọi là hành vi vượt quá của người thực hành. Hành vi
vượt quá của người thực hành là việc người thực hành tự ý thực hiện
hành vi phạm tội mà những người đồng phạm khác không nhu cầu, hành
vi của người thực hành mà những đồng phạm khác không có ý định thực
hiện. Xuất phát từ một trong các nguyên tắc xác định trách nhiệm
hình sự trong vụ án đồng phạm là nguyên tắc “chịu trách nhiệm độc
lập về việc cùng thực hiện tội phạm”, nghĩa là những người
đồng phạm bên cạnh việc chịu trách nhiệm chung về việc cùng thực
hiện một tội phạm thì còn phải chịu trách nhiệm hình sự riêng đối
với hành vi mà cá nhân người đồng phạm đó thực hiện và không có sự
“Cố ý cùng” tham gia của những người đồng phạm khác. Chính Vì vậy,
đối với hành vi vượt quá của người thực hành thì những người đồng
phạm còn lại không phải chịu trách nhiệm về hành vi vượt quá của
người thực hành và người thực hành có hành vi vượt quá phải chịu
trách nhiệm hình sự riêng về hành vi vượt quá này. Đây là một điểm
mới tích cực và nổi bật về quy định đồng phạm của Bliên lạcS năm
2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 so với Bliên hệS năm 1999. Nội dung
này đã khắc phục được hạn chế lớn của BLHS năm 1999 trong việc xác
định trách nhiệm hình sự đối với hành vi vượt quá của người thực
hành góp phần đảm bảo nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, góp
phần đấu tranh phòng, chống tội phạm. tuy nhiên, bên cạnh những
điểm tích cực của BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 khi bổ
sung nội dung “Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự
về hành vi vượt quá của người thực hành” thì công ty chúng tôi
cho rằng quy định này cần phải được hoàn thiện hơn nữa. Đó là, khi
Bliên lạcS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về “Hành vi
vượt quá” của người thực hành nhưng chưa đưa ra khái niệm hoặc
hình thức xác định “Hành vi vượt quá” của người thực hành hoặc
ranh giới phân định “Hành vi vượt quá” hay “ không là
hành vi vượt quá” của người thực hành. Bởi vì, thực tiễn xét
xử cho thấy rằng để xác định hành vi của người thực hành đã thực
hiện trong vụ án đồng phạm có phải là hành vi vượt quá hay không
gặp rất nhiều khó khăn. Như phân tích trên, để xác định hành vi
thực hiện là vượt quá hay không vượt quá thì phải xác định được các
đồng phạm khác có cùng cố ý hoặc cùng nhu cầu thực hiện hành vi đó
hay không. Điều này có nghĩa rằng, ranh giới để phân biệt hành vi
vượt quá hay hành vi không vượt quá phục thuộc vào việc làm rõ nhận
thức và nhu cầu bên trong của người đồng phạm, tức là phụ thuộc và
việc xác định lỗi trong dấu hiệu chủ quan của hành vi được thực
hiện. Nếu lỗi trong dấu hiệu chủ quan của hành vi đó là “cùng cố ý”
thực hiện hành vi thì hành vi này được xem là hành vi vượt quá và
ngược lại, nếu lỗi trong dấu hiệu chủ quan của hành vi đó là “không
cùng cố ý” thực hiện hành vi thì hành vi này không được xem là hành
vi vượt quá của người đồng phạm. Hơn nữa, vấn đề loại trừ trách
nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác (không phải là
người thực hành như: người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức)
trong vụ án có đồng phạm, không chỉ có liên quan đến hành vi vượt
quá của người thực hành mà còn liên quan đến nhiều chế định khác
như: Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, xác định lỗi, các khó
khăn của đồng phạm và phạm tội có tổ chức.v.v… nhưng hành vi vượt
quá của người thực hành lại liên quan trực tiếp đến việc loại trừ
trách nhiệm hình sự đối với người đồng phạm khác, nên có thể nói
hành vi vượt quá của người thực hành chính là khó khăn (căn cứ) để
loại trừ trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác.
2. Kiến nghị, đề xuất: Từ những phân tích nêu trên, công
ty chúng tôi có những kiến nghị, đề xuất tới Hội đồng Thẩm phán
TANDTC như sau: – Khi có hướng dẫn liên quan đến đồng phạm cần chi
tiết, rõ ràng về các tiêu chí xác định “Hành vi vượt quá” của
người thực hành trong vụ án đồng phạm để đảm bảo sự thống nhất
trong quy trình áp dụng khoản 4 Điều 17 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ
sung năm 2017. – Cần có hướng dẫn cụ thể mới phù hợp với khó khăn,
hoàn cảnh phạm tội xảy ra trong môi trường xã hội Hiện tại và
phù hợp với Bliên hệS hiện hành để thống nhất đánh giá, áp dụng quy
định tại khoản 2 Điều 17 BLHS, sửa đổi bổ sung năm 2017 về phạm tội
có tổ chức. Tác giả bài viết: Ngô Văn Khôi – Tòa án nhân dân
huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam
Leave a Reply