Trang thông tin điện tử Vụ Pháp chế
Tóm tắt: Bài viết phân tích khái quát nội dung, ý nghĩa của các
nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính được quy định trong Luật Xử
lý vi phạm hành chính năm 2012 (Luật năm 2012), bình luận và đưa ra
một số kiến nghị nhằm bảo đảm tính thống nhất của pháp luật về xử
phạt vi phạm hành chính để thể hiện nhất quán nội dung, tinh thần
của các nguyên tắc xử phạt và tiện khi xử phạt vi phạm hành chính
trong thực tiễn. Từ khóa: Nguyên tắc xử phạt, thẩm quyền xử phạt,
Thủ tục xử phạt, vi phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành chính.
Abstracts: This article provides in-brief analysis of the contents
and significance of the principles of sanctioning administrative
violations specified in the Law on Handling of Administrative
Violations of 2012, provides comments and gives out recommendations
to ensure the consistency of the law on sanctioning of
administrative violations so that the contents and spirits of the
sanctioning principles are consistently understood and it is
convenient to apply the sanctioning of administrative violations in
practices. Keywords: sanctioning principles; sanctioning authority;
sanctioning procedures; administrative violations; sanction of
administrative violations. Xử phạt vi phạm hành chính là vận hành
của các cá nhân có thẩm quyền nhằm xác định hành vi vi phạm hành
chính (VPHC) để áp dụng các cách thức xử phạt và các biện pháp
cưỡng chế khác do pháp luật quy định đối với cá nhân, tổ chức thực
hiện hành vi VPHC. tương đương các vận hành truy cứu trách nhiệm
pháp lý khác, xử phạt VPHC phải tuân theo những nguyên tắc nhất
định để xử phạt đúng đắn, chính xác, vừa bảo vệ quyền, lợi ích của
Nhà nước, của xã hội, cùng lúc ấy vẫn bảo vệ hữu hiệu quyền, lợi
ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị xử phạt.
1. Các nguyên tắc xử phạt vi
phạm hành chính 1.1. Nguyên tắc mọi vi phạm hành chính
phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử
lý nghiêm minh, mọi hệ lụy do VPHC gây ra ra phải được
khắc phục theo đúng quy định của pháp luật VPHC là hành vi trái
pháp luật nên có tính nguy hiểm cho xã hội. Tính nguy hiểm cho xã
hội của hành vi VPHC thể hiện ở chỗ VPHC phá vỡ trật tự xã hội được
Nhà nước thiết lập, xâm phạm hoặc đe dọa xâm phạm đến quyền, lợi
ích chính đáng, hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, xã hội, Nhà
nước. Việc phát hiện, ngăn ngừa kịp thời hành vi VPHC sẽ góp phần
xác minh các tình tiết liên quan đến vi phạm để xử lý chính xác hay
ngăn chặn ảnh hưởng tiêu cực của hành vi vi phạm. Chẳng hạn, để
thiết lập trật tự giao thông, Nhà nước đặt ra những quy định về quy
tắc giao thông, như quy tắc dùng làn đường, vượt xe, chuyển hướng,
dừng, đỗ xe, chở người, hàng hóa… Nếu tất cả mọi người tham gia
giao thông đều tuân thủ các quy tắc đó thì giao thông sẽ ổn định,
trật tự, an toàn. Bất cứ hành vi vi phạm hành chính nào về giao
thông đều ảnh hưởng xấu đến trật tự giao thông, gây mất an toàn cho
người và phương thuận tiện tham gia giao thông. Trên thực tế có
nhiều hành vi vi phạm không được phát hiện, ngăn chặn kịp thời đã
gây ra những hậu quả thảm khốc. Pháp luật có những quy định thể
hiện trực tiếp nguyên tắc này, như: để xác minh các tình tiết liên
quan đến vi phạm hành chính, khi xét thấy cần thiết, người có thẩm
quyền có thể quyết định khám người, khám phương tiện vận tải, đồ
vật. Việc khám người, khám phương tiện vận tải, đồ vật trong trường
hợp thông thường thì phải có quyết định bằng văn bản của người có
thẩm quyền. tuy nhiên, để đảm bảo tính kịp thời, pháp luật cho phép
khám không cần quyết liệt bằng văn bản mà tiến hành khám ngay nếu
có căn cứ cho rằng nếu không khám ngay thì đồ vật, tang vật, phương
tiện, tài liệu bị tẩu tán, tiêu hủy[1]. Khi phát hiện hành vi VPHC
thì người có thẩm quyền phải xử phạt nghiêm minh để đảm bảo tổng
giá trị trừng trị người vi phạm, cùng lúc ấy giáo dục người vi phạm
và giáo dục chung đối với tất cả mọi người. Việc không xử lý hay xử
lý quá nhẹ có thể dẫn đến sự coi thường pháp luật, nếu xử phạt quá
nặng sẽ gây ra bức xúc cho người bị xử phạt. Cả hai có khả năng đó
đều tác động bất lợi đến ý thức pháp luật của người dân. và cạnh
đó, có thường xuyên hành vi VPHC gây ra thiệt hại về mặt thực tế.
Chẳng hạn, hành vi xả, thải nước, khí có chứa các thông số nguy hại
môi trường sẽ làm ô nhiễm đất, nước, không khí. Sự ô nhiễm này sẽ
gây nguy hại cho con người, cho động, thực vật. do đó, với các hành
vi VPHC có gây thiệt hại thực tế thì ngoài việc xử phạt người vi
phạm bằng hình thức xử phạt thì còn cần phải áp dụng các biện pháp
rất cần thiết để khắc phục hệ lụy do VPHC gây ra thì mới thực sự
loại trừ được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm.
Nếu hậu quả của vi phạm hành chính không được khắc phục thì hậu quả
đó có thể ảnh hưởng rất dài lâu như trường hợp Doanh nghiệp Vedan
đã làm ô nhiễm dòng sông Thị Vải mà theo ước tính thì nếu áp dụng
tích cực các biện pháp rất cần thiết cũng phải mất 10 năm đến 15
năm mới trả lại cho dòng sông tình trạng ban đầu[2]. 1.2. Nguyên
tắc việc xử phạt VPHC được tiến hành nhanh chóng, công
khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định
của pháp luật Thứ nhất, việc xử phạt VPHC được tiến hành nhanh
chóng. VPHC thường được coi là hành vi có tính nguy hiểm thấp hơn
tội phạm nên thông thường việc xử phạt VPHC không phải mất quá
thường xuyên thời gian mà vẫn có thể đảm bảo chính xác, đúng pháp
luật. Hơn nữa, khi xử phạt VPHC, bằng việc áp dụng một vài biện
pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật có khả năng ảnh hưởng
đến quyền, lợi ích hay hoạt động bình thường của người bị xử phạt.
Hơn nữa, như trên đã nêu, việc xử phạt nhanh chóng sẽ có khả năng
ngăn ngừa kịp thời các ảnh hưởng tiêu cực do vi phạm hành chính gây
ra. Nguyên tắc này được thể hiện ở cả hai giấy tờ xử phạt VPHC.
Trong Thủ tục xử phạt không lập biên bản, quyết liệt hành chính
được ban hành ngay khi người có thẩm quyền phát hiện hành vi vi
phạm. Trong hồ sơ xử phạt có lập biên bản, thời hạn ban hành quyết
định xử phạt VPHC nói chung là 7 ngày; trong trường hợp pháp luật
quy định có giải trình hoặc trường hợp không có giải trình nhưng
phức tạp thì thời hạn là 30 ngày kể từ ngày lập biên bản vi phạm
hành chính. Với thời hạn như vậy, việc xử phạt VPHC cần được thực
hiện nhanh chóng vì nếu hết thời hạn thì người có thẩm quyền không
được ban hành quyết định để xử phạt về hành vi vi phạm đó nữa. Thứ
hai, việc xử phạt VPHC phải được tiến hành công khai, khách quan.
Hiện tại, công khai đã trở thành nguyên tắc chung trong vận hành
của Nhà nước, trừ trường hợp liên quan đến bí mật nhà nước. thường
xuyên quy định về xử phạt VPHC đã thể hiện nguyên tắc này, như:
biên bản vi phạm hành chính phải có chữ ký của người vi phạm hoặc
đại diện của người vi phạm, nếu người vi phạm không có mặt thì phải
có chữ ký của đại diện chính quyền cơ sở nơi xảy ra vi phạm[3];
công bố công khai việc xử phạt VPHC trong trường hợp vi phạm gây ra
hệ lụy lớn hoặc gây ảnh hưởng xấu về xã hội[4]; các quy định về
khám người, khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính, khám phương tiện vận tải cũng chú ý đến việc công bố quyết
định khám, có người chứng kiến, lập biên bản về việc
khám…[5] Công khai giúp cho việc kiểm soát dễ dàng nên sẽ hạn
chế sai phạm trong xử phạt vi phạm hành chính, còn khách quan thì
bảo đảm xử phạt chính xác, đúng người, đúng vi phạm. Thứ ba,
việc xử phạt VPHC phải đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy
định của pháp luật. Xử phạt VPHC là hoạt động sử dụng quyền lực nhà
nước để áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với người vi phạm nên
chỉ người có thẩm quyền mới có quyền xử phạt VPHC và chỉ được xử
phạt trong giới hạn thẩm quyền pháp luật quy định. Thẩm quyền xử
phạt vi phạm hành chính được thể hiện cụ thể là ai được quyền xử
phạt, được xử phạt đối với những hành vi vi phạm trong lĩnh vực
nào, được áp dụng các biện pháp cưỡng chế nào, đến mức độ nào. Việc
xử phạt đúng thẩm quyền sẽ tạo nên sự hài hòa, không chồng chéo,
không bỏ sót vi phạm và xử phạt được tiện, chính xác. Việc xử phạt
cũng phải bảo đảm công bằng để ai vi phạm cũng đều đặn bị xử phạt,
vi phạm giống nhéu thì bị xử phạt giống nhau, đồng thời có tính đến
các yếu tố đặc thù về người vi phạm, khó khăn, hoàn cảnh vi phạm
nhưng trong giới hạn pháp luật quy định. Chẳng hạn, sau khi ban
hành quyết định xử phạt VPHC, nếu cá nhân bị phạt tiền từ 3.000.000
đồng trở lên đang gặp khó khăn đặc biệt, đột xuất về kinh tế do
thiên tại, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh, bệnh hiểm nghèo, tai nạn
thì người có thẩm quyền có thể xem xét miễn, Giảm tiền phạt[6].
1.3. Nguyên tắc việc xử phạt VPHC phải căn cứ vào tính chất,
mức độ, hệ lụy vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết Giảm nhẹ,
tình tiết tăng nặng Bất cứ hành vi VPHC nào cũng có tính nguy hiểm
cho xã hội và tùy theo mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà
pháp luật quy định cách thức, mức phạt phù hợp. Mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi VPHC tùy thuộc vào nhiều yếu tố như bản thân
hành vi đó là hành vi gì, mức độ nghiêm trọng của hệ lụy gây ra,
người vi phạm là ai, thực hiện hành vi vi phạm trong điều kiện hoàn
cảnh nào… do đó, để xử phạt VPHC nghiêm minh, công bằng, có tổng
giá trị răn đe, phòng ngừa cao thì khi xử phạt phải căn cứ vào tính
chất, mức độ, hậu quả vi phạm, đồi tượng vi phạm, các tình tiết
tăng nặng, hạn chế nhẹ để quyết định cách thức, mức xử phạt. 1.4.
Nguyên tắc chỉ xử phạt VPHC khi có hành vi VPHC do pháp luật
quy định;một hành vi VPHC chỉ bị xử phạt một lần;nhiều người cùng
thực hiện một hành vi VPHC thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt về
hành vi VPHC đó;một người thực hiện nhiều hành vi VPHC hoặc VPHC
thường xuyên lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm Một hành vi
vi phạm pháp luật nói chung đều đặn có 2 dấu hiệu: dấu hiệu nội
dung là hành vi đó có tính nguy hiểm cho xã hội; dấu hiệu cách thức
là hành vi đó phải được pháp luật quy định đó là hành vi vi phạm
pháp luật. Ví dụ, pháp luật quy định người khiếu nại có nghĩa vụ
chấp hành quyết liệt giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật
nhưng pháp luật không có quy định hành vi không thực hiện quyết
liệt giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật là hành vi VPHC nên
không thể xử phạt cá nhân, tổ chức khiếu nại nếu họ không thực hiện
quyết định giải quyết khiếu nại. Nguyên tắc này thể hiện quan điểm
là chỉ có cơ quan có thẩm quyền mới có quyền xác định một hành vi
trái pháp luật nào đó có phải là VPHC không và trong trường hợp có
hành vi thực sự có tính nguy hiểm cho xã hội mà vì lý do nào đó
pháp luật chưa quy định đó là hành vi VPHC thì không ai có thể bắt
cá nhân, tổ chức chịu trách nhiệm hành chính về hành vi đó. Trong
trường hợp pháp luật quy định một hành vi là VPHC thì mỗi lần cá
nhân, tổ chức thực hiện hành vi đó sẽ chỉ bị xử phạt một lần về
hành vi VPHC đã thực hiện được. Nếu người có thẩm quyền phát hiện
cá nhân, tổ chức thực hiện nhiều VPHC hay nhiều cá nhân, tổ chức
cùng thực hiện một vi phạm thì việc xử phạt mỗi cá nhân, tổ chức về
từng hành vi họ vi phạm trong một lần xử phạt cũng vẫn là một VPHC
chỉ bị xử phạt một lần. 1.5. Nguyên tắc người có thẩm quyền xử phạt
có trách nhiệm chứng minh VPHC;cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền
tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình
không vi phạm hành chính Để xử phạt VPHC đối với cá nhân, tổ chức
thì người có thẩm quyền xử phạt phải chứng minh được cá nhân, tổ
chức đó đã thực hiện hành vi vi phạm trên thực tế. Nếu không chứng
minh được có VPHC trên thực tế thì không thể xử phạt và muốn xử
phạt về hành vi vi phạm nào thì phải chứng minh có hành vi đó. Có
như vậy, người có thẩm quyền mới có khả năng biết được cần xử phạt
ai và xử phạt như thế nào để tránh sai sót. Mặc dù vậy, người có
thẩm quyền đôi khi vẫn không có đủ thông tin rất cần thiết hoặc
thông tin họ có không rõ ràng, chính xác nên có khả năng dẫn đến
kết luận sai và ra quyết liệt xử phạt sai. Để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của người bị xử phạt, Luật năm 2012 đưa ra nguyên tắc cá
nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thông qua người đại
diện hợp pháp chứng minh mình không VPHC. Nguyên tắc này được thể
hiện rất rõ trong quy định về quyền giải trình của người bị xử phạt
VPHC [7]. 1.6. Nguyên tắc đối với cùng một hành vi
VPHC thì mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền
đối với cá nhân Đây cũng là nguyên tắc mới được đưa vào trong Luật
năm 2012. Theo đó, khi thực hiện hành vi vi phạm có tất cả mọi tình
tiết giống nhéu thì tổ chức vi phạm sẽ bị phạt tiền với mức tiền
phạt cao gấp đôi so với mức tiền phạt đối với cá nhân đã thành
niên. Nguyên tắc này đã được cụ thể hóa trong tất cả các nghị định
quy định về VPHC và xử phạt VPHC trong các lĩnh vực chi tiết.
2. Nhận xét và kiến nghị 2.1. Về nguyên tắc mọi hệ
lụy do VPHC gây ra ra phải được khắc phục theo đúng quy định của
pháp luật Như đã đề cập ở trên, tính chất nguy hiểm cho xã hội của
VPHC không chỉ thể hiện ở bản thân hành vi vi phạm mà còn ở hậu quả
do hành vi vi phạm gây ra ra. do đó, khắc phục hậu quả do VPHC gây
ra ra là tất yếu. mặc khác, Điều 65 Luật năm 2012 quy định trường
hợp cá nhân vi phạm hành chính chết, mất tích, tổ chức vi phạm giải
thể, phá sản trong thời gian xem xét ra quyết định xử phạt thì
người có thẩm quyền không ra quyết định xử phạt, nhưng vẫn có thể
áp dụng biện pháp khắc phục hệ lụy. Vấn đề đặt ra là trong trường
hợp này ai sẽ là người thực hiện biện pháp khắc phục hệ lụy khi mà
trách nhiệm ở đây thuộc loại trách nhiệm không chuyển giao cho
người khác[8]. Do vậy, để nguyên tắc này được thể hiện xuyên suốt,
cần sửa đổi quy định này theo một trong hai phương án sau: – Bãi bỏ
quy định về việc ra quyết liệt khắc phục hệ lụy VPHC trong trường
hợp cá nhân chết, mất tích, tổ chức bị giải thể, phá sản; hoặc, –
Xác định cụ thể cơ quan nhà nước có trách nhiệm khắc phục hậu quả
để bảo đảm an toàn cho con người, xã hội, một cách tự nhiên khi chủ
thể của vi phạm đã không còn tồn tại. 2.2. Về nguyên tắc việc xử
phạt VPHC được tiến hành đúng thẩm quyền, đúng quy định của pháp
luật Luật năm 2012 quy định hai giấy tờ xử phạt VPHC, trong đó hồ
sơ không lập biên bản chỉ được áp dụng trong trường hợp phạt cảnh
cáo hoặc phạt tiền đến 250.000 đồng đối với cá nhân, đến 500.000
đồng đối với tổ chức (trừ trường hợp vi phạm được phát hiện bởi các
phương thuận tiện kỹ thuật). Tất cả các trường hợp còn lại đều đặn
áp dụng theo Thủ tục có lập biên bản. Điều đó có nghĩa là, ngay cả
trường hợp xử phạt hành vi do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự thụ
lý, giải quyết nhưng sau đó quyết liệt không khởi tố vụ án hình sự,
hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự, đình chỉ điều tra hoặc
đình chỉ vụ án cũng vẫn phải lập biên bản VPHC[9]. Điều này về cơ
bản là không hợp lý vì khi rơi vào trường hợp nêu trên thì VPHC đã
xảy ra khá lâu (dù chưa hết thời hiệu xử phạt) và các bộ phận tố
tụng đã có nhiều hoạt động nhằm ghi nhận, xác minh thông tin liên
quan đến vi phạm đó rồi. Lúc này, việc lập biên bản VPHC chủ yếu
mang tính hình thức. Như vậy, để đảm bảo nguyên tắc xử phạt VPHC
đúng pháp luật (trong đó có đúng giấy tờ xử phạt) thì cần có quy
định về trường hợp ngoại lệ không áp dụng giấy tờ không lập biên
bản nhưng vẫn không cần lập biên bản VPHC[10]. và cạnh đó, khoản 1
Điều 56 Luật năm 2012 quy định “Xử phạt VPHC không lập biên bản
được áp dụng trong trường hợp xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến
250.000 đồng đối với cá nhân, 500.000 đồng đối với tổ chức”. Từ
“trường hợp” ở đây không rõ nghĩa nên có khả năng hiểu theo thường
xuyên cách khác nhau: (1) Trường hợp có nghĩa là hành vi: tức là cứ
hành vi nào có mức phạt tiền trên 250.000 đồng đối với cá nhân,
trên 500.000 đồng đối với tổ chức thì mới phải lập biên bản; (2)
Trường hợp nghĩa là người vi phạm: tức là một cá nhân, tổ chức
trong một lần bị xử phạt bất kể thực hiện mấy hành vi nếu tổng mức
phạt là trên 250.000 đồng đối với cá nhân, 500.000 đồng đối với tổ
chức thì phải lập biên bản; (3) Trường hợp nghĩa là một lần xử
phạt, tức là trong một lần xử phạt có khả năng có thường xuyên
người bị xử phạt, có thể xử phạt về thường xuyên hành vi nhưng tổng
tiền phạt trong lần xử phạt đó là trên 250.000 đồng đối với cá
nhân, 500.000 đồng đối với tổ chức thì phải lập biên bản. Nếu hiểu
theo các cách khác nhau như vậy có nghĩa là sẽ có thường xuyên cách
áp dụng hồ sơ xử phạt khác nhau mà vẫn được gọi là đúng giấy tờ
pháp luật quy định. Do vậy, cần sửa đổi quy định này như sau: “Xử
phạt VPHC không lập biên bản được áp dụng trong trường
hợp hành vi vi phạm bị xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền
đến 250.000 đồng đối với cá nhân, 500.000 đồng đối với tổ chức”.
2.3. Về nguyên tắc xử phạt VPHC phải căn cứ vào tính chất, mức độ,
hậu quả vi phạm Nguyên tắc này bảo đảm cách thức, mức xử phạt hoàn
toàn tương xứng với mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi
phạm. tuy nhiên, do hành vi VPHC thường được quan niệm là có mức độ
nguy hiểm cho xã hội không cao, trong khi thực tế VPHC xảy ra rất
thường xuyên nên việc xử phạt VPHC cần được tiến hành một cách dễ
dàng, nhanh chóng. do đó, Luật năm 2012 quy định cách xác định mức
tiền phạt là nếu không có tình tiết tăng nặng, hạn chế nhẹ thì mức
phạt tiền là mức trung bình của khung. Cho nên, ở mức độ chi tiết
thì hành vi VPHC có mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhéu nhưng nếu
thuộc một khung tiền phạt thì mức phạt tiền được áp dụng là như
nhéu. Điều này có khả năng chấp nhận được nếu mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi thuộc phạm vi được đưa vào một khung tiền phạt
không chênh lệch quá lớn. Ví dụ, khoản 3 Điều 24 Nghị định
96/2014/NĐ-CP quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực tiền tệ và
ngân hàng: phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối
với hành vi mua, bán ngoại tệ tại tổ chức không được phép thu đổi
ngoại tệ. Với quy định này, hành vi mua, bán ngoại tệ tại tổ chức
không được phép thu đổi ngoại tệ không phụ thuộc số lượng ngoại tệ
được mua bán đều đặn bị xử phạt cùng một khung tiền phạt. Bởi vậy,
khi có trường hợp chỉ bán 100 USD đã bị phạt tới 90.000.000 đồng
gây ra bức xúc trong xã hội[11]. Khoản 2 Điều 14 Nghị định
176/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y
tế: Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với hành vi
xả rác, chất thải sinh hoạt, chất thải của người và gia súc có khối
lượng từ đủ 01 m3/ngày đêm trở lên vào nguồn nước dùng cho ăn uống,
sinh hoạt và khu vực công cộng. Như vậy, dù lượng rác, chất thải
thường xuyên đến mức nào (chỉ cần đủ 1m3 trở lên) là đều đặn
bị xử phạt giống nhau. Những quy định như trên không phải là phổ
biến, mặc khác, để đảm bảo xử phạt vi phạm hành chính đúng với tính
chất, mức độ, hậu quả của vi phạm thì cần có những khung tiền phạt
trên cơ sở có định lượng cụ thể đối với hành vi và biên độ giữa mức
nguy hiểm nhất và ít nguy hiểm nhất của hành vi thuộc mỗi khung
tiền phạt nhớ đừng nên quá rộng. 2.4. Về nguyên tắc người có thẩm
quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh VPHC, cá nhân, tổ chức
bị xử phạt có quyền chứng minh mình không VPHC Thứ nhất, người có
thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh VPHC. Xét ở một góc độ
nhất định, nguyên tắc này có tính tất yếu vì nếu không chứng minh
được VPHC thì người có thẩm quyền không thể tiến hành xử phạt. Xét
ở một góc độ khác, nếu so sánh với truy cứu trách nhiệm hình sự, Bộ
luật Tố tụng hình sự (TTHS) ngoài quy định trách nhiệm chứng minh
tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tố tụng thì còn quy định
người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình
vô tội, đồng thời quy định nguyên tắc suy đoán vô tội[12]. Nguyên
tắc suy đoán vô tội là yêu cầu về logic tư duy, thể hiện sự khách
quan, công minh, nhân văn ở chỗ mọi tình tiết, chứng cứ liên quan
đến vụ án phải được giải thích theo hướng có lợi cho người bị tình
nghi[13]. Các quy định đó nhằm tránh việc các bộ phận tố tụng chỉ
quan tâm đến việc chứng minh người bị buộc tội mà bỏ qua các chứng
cứ có thể chứng minh họ vô tội. Dĩ nhiên, truy cứu trách nhiệm hình
sự và xử phạt VPHC là khác nhéu, nhưng để tránh có khả năng người
có thẩm quyền xử phạt suy nghĩ lệch theo hướng chỉ chứng minh VPHC
thì Luật năm 2012 cũng cần có quy định tương tự Bộ luật TTHS. Pháp
luật xử phạt VPHC của Nga cũng quy định nguyên tắc suy đoán không
có lỗi[14]. Thứ hai, người bị xử phạt có quyền chứng minh mình
không VPHC. Đây là nguyên tắc thể hiện sự tiến bộ hơn hẳn của Luật
so với pháp luật trước đây về xử phạt VPHC. Luật đã dành một số
điều quy định trực tiếp về giải trình trong xử phạt VPHC. Hàm nghĩa
của giải trình là quyền được lắng nghe. Cơ sở của quyền giải trình
là bất kỳ ai cũng đều đặn không thích hợp để trở thành quan tòa cho
chính bản thân mình. Ý nghĩa của nó là loại bỏ sự phiến diện trong
suy nghĩ, ý kiến của cá nhân[15]. Nguyên tắc này góp phần Giảm sự
quan liêu, thiên lệch có khả năng có trong tư duy chứng minh VPHC
của người có thẩm quyền xử phạt. Hiện tại, Luật năm 2012 mới
quy định người bị xử phạt có quyền giải trình khi bị xử phạt bằng
cách thức tước quyền dùng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời
hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc áp dụng mức phạt tiền
tối đa của khung tiền phạt đối với hành vi đó từ 15.000.000 đồng
trở lên đối với cá nhân, từ 30.000.000 đồng trở lên đối với tổ
chức. Như vậy, nếu người bị xử phạt với hành vi có mức phạt tiền
tối đa của khung tiền phạt thấp hơn mức trên hoặc không phải là bị
tước quyền dùng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc
đình chỉ vận hành có thời hạn thì không được giải trình và thực
chất cũng không có hình thức nào để chứng minh mình không VPHC. Để
đảm bảo nguyên tắc người bị xử phạt có quyền chứng minh mình không
VPHC thì cần mở rộng quyền giải trình cho người bị xử phạt. 2.5. Về
nguyên tắc đối với cùng một hành vi VPHC thì mức phạt tiền đối
với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân Trong xử phạt
VPHC, phạt tiền là hình thức xử phạt được áp dụng phổ biến nhất.
Mức phạt tiền cao hay thấp tùy thuộc vào mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi. Mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và mức
phạt tỉ lệ thuận với nhau. Mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phụ thuộc vào khách thể mà hành vi xâm phạm tới, thiệt hại thực tế
hành vi gây ra, công cụ, phương tiện sử dụng để thực hiện hành vi,
điều kiện, hoàn cảnh hành vi được thực hiện, hình thức lỗi… nhưng
không phụ thuộc vào chủ thể thực hiện hành vi theo nghĩa là cá nhân
hay tổ chức. Bởi vậy, cần xem xét lại cơ sở khoa học, cơ sở thực
tiễn, cơ sở pháp lý của nguyên tắc này, đánh giá lại ảnh hưởng của
việc thực hiện nguyên tắc này trên thực tế một cách thật sự khách
quan, khoa học để quyết định duy trì hay bãi bỏ nguyên tắc này
trong xử phạt VPHC. Pháp luật về xử phạt VPHC những năm qua không
ngừng thay đổi, hoàn thiện phù hợp với thực trạng VPHC và những
thay đổi của cuộc sống xã hội. Các nguyên tắc xử phạt vi phạm cũng
được thay đổi, bổ sung. Bên cạnh những ưu điểm của pháp luật về xử
phạt VPHC và các nguyên tắc xử phạt VPHC thì việc tiếp tục nghiên
cứu kỹ hơn về các nguyên tắc cũng như mối tương quan giữa các
nguyên tắc xử phạt VPHC với các quy định của pháp luật về xử phạt
VPHC là rất cần thiết nhằm xây dựng được các nguyên tắc thực sự
khách quan, khoa học và tạo ra sự thống nhất, đồng bộ của pháp luật
thì các nguyên tắc mới phát huy được hết vai trò tích cực trong xử
phạt VPHC./. [1] Xem khoản 3 Điều 127, khoản 3 Điều 128 Luật
Xử lý vi phạm hành chính năm 2012. [2] Hồng Khánh, Việt
Linh, Mất 10-15 năm sau mới làm sạch được Thị
Vải, https://vnexpress.net/thoi-su/mat-10-15-nam-moi-lam-sach-duoc-thi-vai-2112512.html.
[3] Xem khoản 2 Điều 58 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm
2012. [4] Xem Điều 72 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
[5] Xem Điều 127, 128, 129 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm
2012. [6] Xem Điều 76, 77 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm
2012. [7] Xem Điều 61 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
[8] Xem Ủy ban pháp luật, Báo cáo Thẩm tra dự án Luật Xử
lý vi phạm hành chính số 299/BC-UBPL13. [9] Xem Điều 63 Luật
Xử lý vi phạm hành chính năm 2012. [10] Xem Bùi Thị
Đào, giấy tờ xử phạt vi phạm hành chính, Tạp chí Luật học, số
Đặc san về xử lý vi phạm hành chính 9/2003. [11] Xem Doanh
nghiệp luật Vũ Anh, Vấn đề pháp lý từ vụ đổi 100 USD chịu phạt
90.000.000
đồng, http://vuanhlaw.com.vn/tin-tuc/van-de-phap-ly-tu-vu-doi-100-usd-chiu-phat-90-trieu-dong.html.
[12] Xem Điều 13, 15 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
[13] Xem Đào Trí Úc, Nguyên tắc suy đoán vô tội- nguyên
tắc hiến định quan trọng trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015,
Tạp chí Kiểm sát, số 02/2017. [14] Xem Báo cáo tổng quan tham
khảo kinh nghiệm một số nước trên thế giới về xử lý vi phạm hành
chính, http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View_Detail.aspx?ItemID=266&TabIndex=2&TaiLieuID=219.
[15] Xem Tô Khánh Nguyên (Su Qing Yuan), nghiên cứu chế
độ nghe giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính ở Trung quốc,
Kỷ yếu hội thảo về trách nhiệm hành chính và cấp phép hành chính,
Đại học Luật Hà Nội và Đại học Vân Nam Trung Quốc. PGS. TS. BÙI THỊ
ĐÀO GVCC. Trường Đại học Luật Hà Nội THS. HOÀNG THỊ LAN PHƯƠNG GV.
Trường Đại học Luật Hà Nội. (Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên
Ấn phẩm Tạp chí thống kê Lập pháp số 23 (399), tháng 12/2019.)
Leave a Reply